Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản. Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm ạ.

Văn Mẫu Lớp 12

Phân tích vẻ đẹp của tình người và niềm hy vọng vào cuộc sống ở các nhân vật: Tràng, người vợ nhặt và cụ Tứ trong truyện ngắn Vợ nhặt (Kim Lân)

Tác giả: Sach Vui
Thể loại: Sách Giáo Khoa
Chọn tập

DÀN Ý

1. Giới thiệu khái quát tác giả, tác phẩm:

a. Kim Lân là một cây bút đặc sắc của văn học Việt Nam hiện đại với đề tài: đời sống làng quê. Ông đã có nhiều đóng góp cho thể loại truyện ngắn viết về đề tài này. Đó là sự hiểu biết sâu sắc về nỗi thống khổ của người nông dân và sự đổi đời của họ.

b. Truyện ngắn “Vợ nhặt” thực ra là một chương trong tiểu thuyết “Xóm ngụ cư” (1946). Tác phẩm được viết ngay sau cách mạng tháng 8 – 1945 nhưng còn dang dở và mất bản thảo. Sau ngày hòa bình 1954, Kim Lân dựa vào một phần cốt truyện cũ và viết tiếp truyện ngắn này.

c. “Vợ nhặt” là một truyện ngắn xuất sắc không chỉ của Kim Lân mà còn là một kiệt tác của văn xuôi Việt Nam hiện đại. Thông qua tình huống nhặt vợ trớ trêu của Tràng, tác phẩm đã thể hiện sâu sắc vẻ đẹp của tình người và niềm hy vọng của cuộc sống của những người nông dân xóm ngự cư, cụ thể là ở các nhân vật: Tràng, người vợ nhặt và bà cụ Tứ.

2. Phân tích: có thể phân tích từng nhân vật để làm rõ vẻ đẹp của tình người và niềm hy vọng vào cuộc sống của những người dân ngụ cư ngay trong hoàn cảnh khốn cùng. Cũng có thể phân tích theo 2 luận điểm của đề, trong đó lần lượt chứng minh qua các nhân vật. Dù phân tích theo hướng nào cũng phải làm nổi bật các ý sau:

a. “Sự túng đói quay quắt”, “hoàn cảnh khốn khổ” không làm những người dân ngụ cư từ bỏ lòng nhân ái. Họ vẫn vượt lên trên cái chết, cái thảm đạm để sống với nhau bằng tình người đẹp đẽ.

– Vẻ đẹp tiềm ẩn trong tâm hồn Tràng.

+ Hào hiệp, thương người khi chia sẻ miếng ăn với người đàn bà xa lạ đang đói khát; khi cưu mang thị dù mình cũng đang khốn khổ.

+ Chu đáo, ân cần khi mua cho chị ta cái thúng con, cùng thị đánh một bữa no nê, mua 2 hào dầu để đánh dấu ngày “nhặt vợ”.

+ Thái độ tình nghĩa và trách nhiệm: xót xa thương cảm khi nhìn vẻ buồn bã của vợ; trân trọng thương yêu mà không hề rẻ rúng; mong muốn “dự phần tu sửa lại căn nhà”- nơi Tràng sẽ sống với những người mà anh yêu thương… 

– Vẻ đẹp trong tâm hồn người “vợ nhặt”:

+ Lúc đầu đi theo Tràng chỉ vì miếng ăn mong chạy trốn cái đói, thị đã thất vọng khi chứng kiến hoàn cảnh khốn khổ của Tràng nhưng thị vẫn ở lại ngôi nhà ấy vì thị hiểu mình đã tìm thấy những điều còn quý giá hơn cả miếng ăn, đó là tình người cao đẹp, đó là tấm lòng nhân hậu của những con người sẵn sàng cưu mang, yêu thương thị khi chính họ đang đói khát.

+ Người vợ nhặt đã biến đổi sâu sắc sau khi theo Tràng về nhà: vẻ chao chát, chỏng lỏn đã thay bằng sự hiền hậu đúng mực, mau mắn trong việc làm, ý tứ trong cư xử.

– Vẻ đẹp trong tâm hồn bà cụ Tứ:

Việc con “nhặt vợ” giữa lúc túng đói quay quắt đã khiến bà bất ngờ, ngạc nhiên, nhưng khi đã “hiểu ra bao nhiêu là cơ sự”, trong lòng bà chỉ tràn ngập tình thương: thương con, thông cảm với nàng dâu, trăn trở xót xa về bổn phận làm mẹ. Cố tạo niềm vui cho các con ngay trong bữa cơm ngày đói thê thảm khiến cho món ăn của loài vật lại thắm đẫm tình người…

b. “Sự túng đói quay quắt”, “hoàn cảnh khốn khổ” không ngăn cản được những người dân xóm ngụ cư hy vọng vào cuộc sống- niềm hy vọng đã tạo nên vẻ đẹp rạng rỡ trong tâm hồn họ. 

Nhân vật Tràng: sau cảm giác “chợn” “sờ sợ” khi “thóc gạo này đến cái thân mình cũng chưa biết có nuôi nổi không lại còn đèo bòng”, Tràng tặc lưỡi, liều lĩnh và từ lúc đó, Tràng cảm nhận hạnh phúc đang và sẽ đến với cuộc đời mình. Việc mua hai hào dầu thắp, cảm giác êm ái lửng lơ như trong giấc mơ đi ra, dự liệu về một tương lai khi hắn sẽ cùng vợ mình sinh con đẻ cái ở đây”… Đặc biệt hình ảnh lá cờ đỏ phấp phới trong đầu Tràng đều là biểu hiện của niềm hy vọng mong manh mà vững chắc về tương lai.

– Người “vợ nhặt”: sự biến đổi trong thái độ, trong cách cư xử khi cùng mẹ chồng quét tước cửa nhà cũng phần nào cho thấy niềm hy vọng và sự đổi đời đang âm thầm diễn ra trong lòng thị.

– Bà cụ Tứ: là người thể hiện rõ nhất niềm hy vọng vào một cuộc sống tốt đẹp hơn: bà cắt đặt lo toan công việc, bàn về việc đan phên ngăn phòng, việc nuôi gà, động viên các con bằng cả triết lý dân gian “ai giàu ba họ, ai khó ba đời”, cùng con thu dọn cửa nhà cho quang quẻ.

3. Đánh giá chung:

– Tình người và niềm hy vọng vào cuộc sống đã làm nên vẻ đẹp vừa “thấm thía cảm động”, vừa rạng rỡ trong tâm hồn những người dân xóm ngụ cư.

– Phát hiện và miêu tả vẻ đẹp ấy trong tâm hồn người dân xóm ngụ cư, Kim Lân đã đem đến cho tác phẩm tình cảm nhân đạo sâu sắc, mới mẻ.

DÀN Ý

1. Giới thiệu khái quát tác giả, tác phẩm:

a. Kim Lân là một cây bút đặc sắc của văn học Việt Nam hiện đại với đề tài: đời sống làng quê. Ông đã có nhiều đóng góp cho thể loại truyện ngắn viết về đề tài này. Đó là sự hiểu biết sâu sắc về nỗi thống khổ của người nông dân và sự đổi đời của họ.

b. Truyện ngắn “Vợ nhặt” thực ra là một chương trong tiểu thuyết “Xóm ngụ cư” (1946). Tác phẩm được viết ngay sau cách mạng tháng 8 – 1945 nhưng còn dang dở và mất bản thảo. Sau ngày hòa bình 1954, Kim Lân dựa vào một phần cốt truyện cũ và viết tiếp truyện ngắn này.

c. “Vợ nhặt” là một truyện ngắn xuất sắc không chỉ của Kim Lân mà còn là một kiệt tác của văn xuôi Việt Nam hiện đại. Thông qua tình huống nhặt vợ trớ trêu của Tràng, tác phẩm đã thể hiện sâu sắc vẻ đẹp của tình người và niềm hy vọng của cuộc sống của những người nông dân xóm ngự cư, cụ thể là ở các nhân vật: Tràng, người vợ nhặt và bà cụ Tứ.

2. Phân tích: có thể phân tích từng nhân vật để làm rõ vẻ đẹp của tình người và niềm hy vọng vào cuộc sống của những người dân ngụ cư ngay trong hoàn cảnh khốn cùng. Cũng có thể phân tích theo 2 luận điểm của đề, trong đó lần lượt chứng minh qua các nhân vật. Dù phân tích theo hướng nào cũng phải làm nổi bật các ý sau:

a. “Sự túng đói quay quắt”, “hoàn cảnh khốn khổ” không làm những người dân ngụ cư từ bỏ lòng nhân ái. Họ vẫn vượt lên trên cái chết, cái thảm đạm để sống với nhau bằng tình người đẹp đẽ.

– Vẻ đẹp tiềm ẩn trong tâm hồn Tràng.

+ Hào hiệp, thương người khi chia sẻ miếng ăn với người đàn bà xa lạ đang đói khát; khi cưu mang thị dù mình cũng đang khốn khổ.

+ Chu đáo, ân cần khi mua cho chị ta cái thúng con, cùng thị đánh một bữa no nê, mua 2 hào dầu để đánh dấu ngày “nhặt vợ”.

+ Thái độ tình nghĩa và trách nhiệm: xót xa thương cảm khi nhìn vẻ buồn bã của vợ; trân trọng thương yêu mà không hề rẻ rúng; mong muốn “dự phần tu sửa lại căn nhà”- nơi Tràng sẽ sống với những người mà anh yêu thương… 

– Vẻ đẹp trong tâm hồn người “vợ nhặt”:

+ Lúc đầu đi theo Tràng chỉ vì miếng ăn mong chạy trốn cái đói, thị đã thất vọng khi chứng kiến hoàn cảnh khốn khổ của Tràng nhưng thị vẫn ở lại ngôi nhà ấy vì thị hiểu mình đã tìm thấy những điều còn quý giá hơn cả miếng ăn, đó là tình người cao đẹp, đó là tấm lòng nhân hậu của những con người sẵn sàng cưu mang, yêu thương thị khi chính họ đang đói khát.

+ Người vợ nhặt đã biến đổi sâu sắc sau khi theo Tràng về nhà: vẻ chao chát, chỏng lỏn đã thay bằng sự hiền hậu đúng mực, mau mắn trong việc làm, ý tứ trong cư xử.

– Vẻ đẹp trong tâm hồn bà cụ Tứ:

Việc con “nhặt vợ” giữa lúc túng đói quay quắt đã khiến bà bất ngờ, ngạc nhiên, nhưng khi đã “hiểu ra bao nhiêu là cơ sự”, trong lòng bà chỉ tràn ngập tình thương: thương con, thông cảm với nàng dâu, trăn trở xót xa về bổn phận làm mẹ. Cố tạo niềm vui cho các con ngay trong bữa cơm ngày đói thê thảm khiến cho món ăn của loài vật lại thắm đẫm tình người…

b. “Sự túng đói quay quắt”, “hoàn cảnh khốn khổ” không ngăn cản được những người dân xóm ngụ cư hy vọng vào cuộc sống- niềm hy vọng đã tạo nên vẻ đẹp rạng rỡ trong tâm hồn họ. 

Nhân vật Tràng: sau cảm giác “chợn” “sờ sợ” khi “thóc gạo này đến cái thân mình cũng chưa biết có nuôi nổi không lại còn đèo bòng”, Tràng tặc lưỡi, liều lĩnh và từ lúc đó, Tràng cảm nhận hạnh phúc đang và sẽ đến với cuộc đời mình. Việc mua hai hào dầu thắp, cảm giác êm ái lửng lơ như trong giấc mơ đi ra, dự liệu về một tương lai khi hắn sẽ cùng vợ mình sinh con đẻ cái ở đây”… Đặc biệt hình ảnh lá cờ đỏ phấp phới trong đầu Tràng đều là biểu hiện của niềm hy vọng mong manh mà vững chắc về tương lai.

– Người “vợ nhặt”: sự biến đổi trong thái độ, trong cách cư xử khi cùng mẹ chồng quét tước cửa nhà cũng phần nào cho thấy niềm hy vọng và sự đổi đời đang âm thầm diễn ra trong lòng thị.

– Bà cụ Tứ: là người thể hiện rõ nhất niềm hy vọng vào một cuộc sống tốt đẹp hơn: bà cắt đặt lo toan công việc, bàn về việc đan phên ngăn phòng, việc nuôi gà, động viên các con bằng cả triết lý dân gian “ai giàu ba họ, ai khó ba đời”, cùng con thu dọn cửa nhà cho quang quẻ.

3. Đánh giá chung:

– Tình người và niềm hy vọng vào cuộc sống đã làm nên vẻ đẹp vừa “thấm thía cảm động”, vừa rạng rỡ trong tâm hồn những người dân xóm ngụ cư.

– Phát hiện và miêu tả vẻ đẹp ấy trong tâm hồn người dân xóm ngụ cư, Kim Lân đã đem đến cho tác phẩm tình cảm nhân đạo sâu sắc, mới mẻ.

Chọn tập
Bình luận