* Cách khám phá, thể hiện vẻ đẹp sông Đà của Nguyễn Tuân:
– Sông Đà mang vẻ đẹp vừa hung bạo, vừa trữ tình (dẫn chứng). Nó hiện lên với bản chất nham hiểm của thứ kẻ thù số 1 của con người và nét duyên dáng gợi cảm của một người tình nhân chưa quen biết.
– Sông Đà tượng trưng cho vẻ đẹp hùng vĩ dữ dội và thơ mộng trữ tình của thiên nhiên Tây Bắc. Qua sông Đà, tác giả ca ngợi vẻ đẹp của người lao động Tây Bắc
– Để thể hiện vẻ đẹp sông Đà, Nguyễn Tuân đã kết hợp giữa kể, tả, biểu cảm; lựa chon những chi tiết gây ấn tượng mạnh mẽ (bờ đá, bãi đá, hút nước, tiếng thác, màu sắc…), vận dụng nhiều thủ pháp nghệ thuật (so sánh, nhân hóa) và những liên tưởng bất ngờ, táo bạo; vận dụng vốn hiểu biết sâu rộng về nhiều lĩnh vực (điện ảnh, hội họa, quân sự, võ thuật, thơ ca); từ ngữ phong phú, sáng tạo …
* Cách khám phá, thể hiện vẻ đẹp sông Hương của Hoàng Phủ Ngọc Tường:
– Sông Hương hiện lên với vẻ đẹp phong phú, đa dạng: vẻ đẹp của cảnh sắc thiên nhiên, vẻ đẹp văn hóa, lịch sử… (dẫn chứng)
– Vẻ đẹp của Sông Hương gợi liên tưởng đến nét dịu dàng, cổ kính của vùng đất cố đô, vẻ đẹp tâm hồn của người dân xứ Huế.
– Nhà văn đã qua sát con sông từ nhiều điểm nhìn, nhiều góc độ: không gian, thời gian; địa lí, văn hóa, lịch sử… Giọng văn mang đậm chất trữ tình hướng nội…
Sự độc đáo trong cách khám phá, thể hiện đối tượng đã giúp các tác giả gợi lên được những vẻ đẹp khác nhau của cảnh sắc quê hương. Qua đó thấy được phong cách riêng độc đáo và tình yêu tha thiết của mỗi nhà văn đối với quê hương đất nước.
I. Qua đây ta sẽ phân tích hình ảnh con sông Đà:
1. Con sông Đà hùng vĩ, dài trên năm trăm cây số, hiểm trở với hàng trăm thác ghềnh mang những cái tên cổ sơ, xa lạ (Hát Loóng, thác Giăng, Hót Gió, Mó Tôm…). Ở ghềnh Hát Loóng “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè…!”. Âm thanh tiếng thác nghe ghê rợn như tiếng rống của hàng ngàn con trâu mộng đang lộn giữa rừng vầu, tre nứa bị cháy. Sông Đà có nhiều thạch trận, nhiều cửa tử ít cửa sinh, với những thần sông, thần đá trấn giữ “nhổm cả dậy vồ lấy thuyền”, đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vào chổ hiểm chực “đòi ăn chết cái thuyền”. Luồng nước vô sở bất chí, dòng thác hùm beo hồng hộc tế mạnh trên sông đầy thác ghềnh, thạch trận. Những ông tướng đá mặt xanh lè đáng sợ.
Nhịp điệu câu văn dồn dập. Từ tượng thanh, từ tượng hình, những ẩn dụ so sánh, tiếng nói đời thường sông nước, ngôn từ nhà bình, thể thao thể dục, điện ảnh… được ông vận dụng để miêu tả thác ghềnh, gây ấn tượng về sự dữ dội, hiểm trở, hùng vĩ của sông Đà.
Sông Đà còn mang vẻ đẹp hoang sơ, thơ mộng “tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc, ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai”. “Mùa xuân dòng xanh ngọc bích. Mùa thu nước sông Đà lừ lừ chín đỏ”. Nguyễn Tuân gọi sông Đà là một cố nhân. Cảnh ven sông ở thượng nguồn lặng tờ. Có bầy hươu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương. Cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông bụng trắng như bạc rơi thoi. Có đoạn, có khúc sông: “Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử – Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích ngày xưa”.
Một về cố thi, một câu đồng dao, một câu thơ Đường, một vài câu thơ của Tản Đà của Nguyễn Quang Bích được Nguyễn Tuân lựa chọn đưa vào, cho thấy ông là một cây bút rất sành điệu, tài hoa dẫn dắt người đọc chiếm lĩnh vẻ đẹp sông Đà với tình yêu sông núi, giang sơn.
2. Người lái đò sông Đà
– Làm ăn giỏi, hơn 10 năm cùng con thuyền xuôi ngược sông Đà. Thông thuộc thác ghềnh, thuộc địa hình dòng sông như thuộc bàn tay mình.
– Chiến thắng thần sông, thần đá, chinh phục mọi cửa tử cửa sinh. Dũng cảm và tài ba đưa con thuyền “vút qua cổng đá cánh mở, cánh khép”, như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước”… làm cho tên tướng đá “tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng…”. Có lúc bị luồng nước đánh đòn ác hiểm. “hột sinh dục vụt muốn thọt lên cổ”, nhưng ông vẫn bình tĩnh, tỉnh táo điều khiển con thuyền thoát hiểm.
– Rất tài tử. Sau một ngày dài đọ trí thi tài với thần sông thần đá, ông ung dung đốt lửa trong hang đá, nước ống cơm lam, nói về cá anh vũ, những hầm cá hang cá mùa khô nổ những tiếng to như mình bộc phá rồi cá túa ra đầy tràn ruộng. Lúc ngừng chéo, ông chẳng hề bận tâm về chuyện vượt thác, chiến thắng vừa qua nơi cửa ải nước đủ tướng dữ, quân tợn vừa rồi.
– Một chân dung tuyệt đẹp: Tuổi đã 70 mà cánh tay còn “trẻ tráng”, tóc bạc, cái đầu quắc thước, thân hình cao to, “gọn quánh như chất sừng, chất mun”. Tiếng nói âm vang át cả sóng nước. Ngực, vai có những vết chai như những củ nâu mà Nguyễn Tuân gọi đó là thứ “huân chương lao động siêu hạng”, với thái độ cảm phục ngợi ca.
II. Tiếp đến là sông Hương:
1. Cảm xúc của tác giả trước vẻ đẹp sông Hương: được khơi gợi từ không gian và thời gian cụ thể.(Đoạn 1)
Đó là khu vườn cổ sầm uất, bên dòng sông “tỏa sáng một thần thái yên tĩnh và khoáng đạt”. Đó là những kí ức về Nguyễn Du, truyện Kiều: hình ảnh Nguyễn Du ngồi đọc Kiều dưới mái rêu phong, miên man trong vẻ đẹp của dong sông đang đổi sắc không ngừng và mùi hương của hoa trái trong vườn.
Đó là âm sắc Huế thấp thoáng trong “Truyện Kiều”: dòng sông đáy nước in trời , nội cỏ thơm, nắng vàng, khói biếc, dương liễu u hoài, hoa trà mi nồng nàn ,mùa thu quan san, vầng trăng thắm thiết,…_Cái bóng mông lung trong thơ Nguyễn Du, “như một vang bóng thời gian, cặp tình nhân lí tưởng của Truyện Kiều: tìm kiếm, đuổi bắt, hào hoa, đam mê, thi ca và âm nhạc, gắn bó với nhau trong một tình yêu muôn thuở”.
2. Vẻ đẹp dòng sông Hương ở thượng nguồn phóng khoáng và man dại
Sức sống mãnh liệt, hoang dại, dịu dàng, đắm say, như “một bản trường ca của rừng già , rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn”. Khi chảy qua miền địa hình hiểm trở, sông Hương mang vẻ đẹp dữ dội: “mãnh liệt qua ghềnh thác, cuộn xoắn như cơn lốc xoáy vào đáy vực bí ẩn”, nhưng cũng có lúc lại “dịu dàng, đắm say giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”.Giữa lòng Trường Sơn, sông Hương như một “cô gái Digan, phóng khoáng và man dại”, bởi rừng già đã hun đúc cho nó một bản lĩnh gan dạ , một tâm hồn tự do và trong sáng.Nghệ thuật: so sánh, tu từ, ẩn dụ và nhân hóa.
3. Sông Hương khi về đến ngoại vi thành phố
“Sắc đẹp dịu dàng, trí tuệ, người mẹ phù sa của một vùng văn hóa, xứ sở”, dòng sông duy nhất chỉ đi qua thành phố Huế. Với vốn hiểu biết sâu sắc về địa lí, văn hóa, lịch sử, tác giả miêu tả dòng sông thật sinh động với cảm nhận mang nhiều khác biệt.
Sông Hương như “người con gái đẹp ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại (hình ảnh thơ mộng gợi liên tưởng cổ tích đến nàng công chúa ngủ trong rừng), Dòng sông hiện lên với “khúc quanh đột ngột, uốn mình theo những đường cong thật mềm”.Lưu vực êm ả, thanh bình, vui tươi_giữa những bãi bờ xanh biếc , nhiều màu sắc trầm mặc, triết lí.
Những lăng tẩm với “giấc ngủ nghìn năm của vua chúa được phong kín trong lòng những rừng thông u tịch và niềm kiêu hãnh âm u của những lăng tẩm lan tỏa khắp cả một vùng thượng lưu”.
Vói những quan sát tinh tế, ngôn ngữ giàu hình tượng, so sánh, ẩn dụ, sông Hương trong dư vang Trường Sơn, dòng sông mềm như tấm lụa”. “Những dãy đồi sừng sững như thành quách, với những đỉnh cao đột khởi :Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo”, những ngọn đồi đã tạo ra nững mảng phản quang nhiều màu sắc trên nền trời “sớm xanh, trưa vàng ,chiều tím” rất lạ và đặc trưng như người Huế từng nhận xét.
Sự thay đổi tính cách của người con gái sông Hương đưa ta đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác, một cô gái Digan, man dại và phóng khoáng đã trở nên dịu dàng, e lệ, như “người con gái đẹp được người tình mong đợi đến đánh thức”, “người mẹ phù sa của cả một vùng văn hóa xứ sở”.
Thoảng đâu đó, mơ hồ mà vang vọng trong tâm thức Huế là tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga, tiến gà từ xóm làng trung du bát ngát,…
Từ nghệ thuật, vẻ đẹp của 2 con sông bạn hãy đi từ phân tích cụ thể từng con sông qua góc độ tiếp cận của 2 tác giả bằng ngòi bút miêu tả của mình chứng tỏ một điều cả hai đều mang trong mình một lòng yêu thiên nhiên sâu sắc, dùng vẻ đẹp của thiên nhiên để làm nên bức tranh hiện thực trong văn đó chính là cái hay trong của hai tác giả khi đã khắc họa rõ nét hình ảnh 2 con sông …