Trong giao lưu với văn học nước ngoài, Thơ Mới Việt Nam chịu ảnh hưởng của thơ ca phương Tây, trong đó có thơ tượng trưng là một thực tế không phủ nhận. Các tác giả thơ tượng trưng như Baudelaire, Arthur Rimbaud, Paul Verlaine…, thậm chí cả nhà thơ lãng mạn và tượng trưng Mỹ Edgar Allan Poe đã để lại dấu ấn âm nhạc khác nhau trong sáng tác của một bộ phận của các nhà thơ mới. Trong “Thi nhân Việt Nam”, Hoài Thanh, Hoài Chân đã khẳng định: “Các nhà thơ mới không nhiều thì ít, ở mức độ đậm nhạt khác nhau, đều bị ám ảnh bởi Baudelaire, người đã khơi nguồn thơ ấy”. Ở chuyên luận “Thơ Mới”, Giáo sư Phan Cự Đệ viết: “Từ năm 1936 trở về sau, trường phái thơ tượng trưng được người ta chú ý hơn cả”. Trong lời tựa tập thơ “Những bông hoa Ác”, Giáo sư Đỗ Đức Hiểu đã phân biệt hai “làn sóng” thơ, trong đó làn sóng thứ nhất chịu ảnh hưởng nhiều ở thơ lãng mạn, còn làn sóng thứ hai với các nhà thơ Xuân Diệu, Hàn Mạc Tử, Bích Khê, Chế Lan Viên, Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng… chịu ảnh hưởng của thơ tượng trưng. Bản thân Xuân Diệu, một trong những trụ cột của thi đàn Việt Nam cũng đã thừa nhận một cách không dấu giếm: “Với Baudelaire, tôi đi toàn vẹn vào tính chất hiện đại của thơ”.1
Thẩm mỹ phương Đông và thẩm mỹ phương Tây có một sự khác biệt lớn. Về lịch sử phát triển, giữa thơ Việt Nam và thơ phương Tây lại tồn tại một khoảng cách thẩm mỹ khá xa, vậy điều gì đã khiến cho thơ mới Việt Nam tiếp cận dễ dàng và rất tự nhiên những yếu tố nghệ thuật của thơ tượng trưng (đặc biệt thơ Pháp) để tạo thành một khuynh hướng thơ có màu sắc tượng trưng rất rõ rệt, góp phần làm đa dạng phong cách nghệ thuật của phong trào Thơ Mới ? Bài viết này dẫn ra một số lý do trực tiếp và sâu xa để cắt nghĩa sự đồng cảm và tiếp thu một cách tự nhiên ảnh hưởng của thơ tượng trưng trong thơ của một bộ phận các nhà thơ mớI Việt Nam.
1. Đầu thế kỷ XX, nhu cầu đổi mới văn học được đặt ra một cách cấp bách. Do những ngẫu nhiên lịch sử, Việt Nam nằm trong vòng đô hộ của đế quốc tư bản phương Tây, sự giao lưu văn hoá, văn học được mở rộng, sự tự ý thức của mỗi nền văn học không cho phép giữ mãi tính chất vùng của khu vực văn hoá Nho giáo và văn tự tượng hình được mà phải nhanh chóng hoà vào dòng chung của văn học thế giới. Nhu cầu đổi mới ấy khi xuất hiện lại gặp được sự chín muồi về những điều kiện lịch sử, kinh tế, xã hội… nên nhanh chóng được hiện thực hoá.
Đầu thế kỷ XX kinh tế đô thị đã phát triển mạnh, tầng lớp thị dân hình thành và ngày càng đông đảo đi liền với những thị hiếu và nhu cầu mới, chữ quốc ngữ đã thuần thục, lớp trí thức Tây học ngày càng nhiều… Những điều kiện ấy giúp con người Việt Nam khi đứng trước “đối chứng” là văn học phương Tây càng nhận ra một cách rõ hơn sự trì trệ, xơ cứng của nền nếp thơ cũ đã tồn tại qua bao thế kỷ, càng thấy rõ hơn cần phải có cái gì đó mới để tăng thêm sinh khí cho thi đàn. Với những điều kiện hết sức khách quan ấy, thơ Việt Nam gặp gỡ thơ Pháp trở thành vấn đề tất yếu và nguồn thơ tượng trưng vào Việt Nam cũng nằm chung trong quá trình du nhập các yếu tố ngoại lai. Có thể xem đây là nhân tố nội tại, hàng đầu của sự tiếp xúc giữa thơ mới Việt Nam và thơ tượng trưng Pháp. Cũng từ nhu cầu nội tại đó ta hiểu được vì sao thơ tượng trưng mặc dù là một thi phái thơ hiện đại chủ nghĩa ra đời sau lại có thể được các nhà thơ Việt Nam tiếp nhận gần như đồng thời với thơ lãng mạn. Vấn đề ở đây là: nhu cầu hiện đại hoá đặt ra và các nhà thơ Việt Nam có thể tiếp thu bất kỳ nguồn thơ nào, miễn sao đối tượng tiếp nhận là mới mẻ và thoả mãn được yêu cầu đổi mới nền thơ dân tộc. Không phải ngẫu nhiên mà trong thơ mới trước 1945 có hiện tượng cộng sinh nhiều hình thức khác nhau, có lãng mạn, có tả chân, có tượng trưng và có cả màu sắc siêu thực trong một số trường hợp ở giai đoạn cuối, như vậy, sự gặp gỡ giữa thơ Việt Nam và thơ Pháp trở thành vừa như một tất yếu vừa như một sự lựa chọn tích cực để góp phần nhanh chóng đưa thơ Việt Nam đi vào quỹ đạo của thơ hiện đại.
2. Sự tương đồng trong ý thức về thân phận giữa các nhà thơ mới Việt Nam và các nhà thơ tượng trưng trung Phương Tây. Trong Phong trào thơ mới, Giáo sư Phan Cự Đệ viết: “Nhìn chung từ 1936 trở về sau, trường phái tượng trưng được người ta chú ý hơn cả. Tại sao đây? … Cái chính vẫn là sự gặp nhau của những tâm hồn trí thức bất mãn với xã hội, đau buồn, chán nản, u uất khi phong trào cách mạng của quần chúng bị thất bại hoặc bì đàn áp dữ dội…”.
Văn học các nước phương Tây, trong nội dung của nó, ý thức về cá nhân và thân phận con người xuất hiện sớm. Đó chính là cơ sở ý thức tư tưởng quan trọng làm xuất hiện những phong trào, những khuynh hướng nghệ thuật chuyên chú vào những khám phá bản chất đích thực của con người, vị trí của con người trong trời đất với tất cả những khả năng, những khát vọng và cả những đổ vỡ đau đớn của họ. Ở phương Đông, với những khuôn khổ đạo lý chặt chẽ, con ngườI cá nhân dường như rất ít có điều kiện thể hiện, nếu có thì nhìn chung vẫn là yếu ớt. Đầu thế kỷ XX, vớI những điều kiện mới (kinh tế hàng hoá, nếp sống đô thị, sự rạn nứt những nguyên lý đạo đức cổ truyền…), ý thức cá nhân có điều kiện xuất hiện và khẳng định. Nó giúp các nghệ sỹ, những người nhạy cảm, ý thức được rõ hơn tính chất thù địch của hoàn cảnh đối với nghệ thuật và họ khám phá ra bi kịch tâm hồn của chính họ. Trong Thơ Mới ta bắt gặp rất nhiều những câu thơ đau đớn nói lên khát vọng không thoả, thậm chí là tuyệt vọng không thoả, thậm chí là tuyệt vọng của các nhà thơ, kiểu như:
– Lũ chúng ta đầu thai nhầm thế kỷ
– Lũ chúng ta lạc loài dăm bảy đứa
– Đời kiêu bạc không dung hồn giản dị.
– Trời hỡi hôm nay ta chán hết
Những sắc màu hình ảnh của trần gian…
Có thể xem những câu thơ đó như những minh chứng để thấy rằng: là những người dân mất nước, các nhà thơ biết nỗi đau của họ, và vì thế thơ tượng trưng – lối thơ xoay sâu vào chủ thể, lối thơ biểu hiện sự phản ứng đối với cuộc sống tầm thương nhỏ nhen, vị kỷ, vị lợi trở thành có sức hấp dẫn kỳ lạ đối với các nhà thơ Việt Nam. Baudelaire đã từng nói: “Ý tưởng về sự ích lợi là sự thù nghịch nhất của thế giới với ý tưởng của cái đẹp”. Những nhà thơ tượng trưng, từ Baudelaire đến Arthur Rimbaud, Paul Verlaine, Mallarmé… càng ngày càng nhận ra cái kỷ nguyên hiện đại mỗi ngày một đi xa hơn giới hạn của cái thiêng liêng, cái “vầng hào quang”, cái “quầng sáng tâm linh” đã bị biến mất dưới sức nặng của vật chất hoá và phi nhân tính hoá các quan hệ giữa con người, với sự tính toán đáng sợ theo tinh thần của thực chứng luận cuối thế kỷ. Trong các nhà thơ Pháp, Arthur Rimbaud đã từng ước mơ chạy trốn trước sự buồn chán: rời bỏ thành phố Charleville ra Paris, rời bỏ Paris sang phương Đông, rồi bỏ phương Đông đến với hư vô… Tuy hoàn cảnh nước Pháp cuối thế kỷ XIX và Việt Nam đầu thế kỷ XX không phải tất cả đều tương đồng (về lịch sử, xã hội, quan hệ giai cấp), nhưng trước những biến động xã hội, giữa các nhà thơ mớI Việt Nam và các nhà thơ tượng trưng phương Tây đều nảy sinh những động năng tâm lý như nhau, họ phát hiện ra sự vô vọng trong khả năng dung hoà với xã hội và tìm kiếm lối thoát cho mình trong những khám phá thẩm mỹ mới.
Nhân tố xã hội như đã chỉ ra là rất quan trọng. Tuy nhiên cần phải thấy rằng: từ những tiếp thu yếu tố nghệ thuật của thơ tượng trưng đến việc hình thành một khuynh hướng thơ, lý do thời đại là chưa đủ để cắt nghĩa. Các nhà thơ mới say thơ Baudelaire và các tác giả tượng trưng không chỉ dừng lại ở thái độ phản ứng đối với thực tại, ở một tâm hồn đồng điệu, mà còn ở một nghệ thuật mới tinh vi và quyền rũ: sự phát hiện ra mối tương hợp các giác quan, những tương quan huyền bí giữa con người và vũ trụ, ở những miền bí ẩn của tâm linh chưa ai khám phá, ở âm điệu du dương của nhạc để diễn tả những giai điệu chủ quan của tâm hồn nghệ sĩ, ở cả sự xả thân cho những tìm tòi mới mẻ của các thi sĩ tượng trưng… Như vậy, để có thể biến các yếu tố được tiếp nhận từ bên ngoài để tạo thành một bộ phận thơ ca có khuynh hướng nghệ thuật rõ rệt còn có những yếu tố khác không kém phần quan trọng, làm cho thơ vừa đảm bảo tính mới lạ, hấp dẫn, vừa gần gũi với tâm thức thẩm mỹ của người phương Đông và Việt Nam.
5. Người phương Đông nói chung có thế mạnh về lối tư duy bằng tượng trưng. Đó là lối tư duy đặc trưng của người trung đại. Khi con người chưa tách mình ra khỏi tự nhiên và chưa nhận thức nổi nó, người trung đại thường sử dụng tự nhiên để thực hiện nhu cầu biểu hiện mình và tư duy tượng trưng được hình thành từ đó. “Thiên nhiên với người trung đại như thể là cùng một loại với con người… Thiên nhiên là một bình chứa vĩ đại các tượng trưng”. Đối với người trung đại nói chung là thế, và với một nước phương Đông như Việt Nam, do còn gắn chặt với điều kiện một xã hội nông nghiệp cổ truyền nên lối tư duy ấy còn chưa xa lắm, nhất là trong cấu trúc ý thức xã hội.
Đặc điểm tư duy của người trung đại phương Đông được phản ánh một cách rõ rệt trong thơ Đường. Trước khi có thơ tượng trưng phương Tây, người Việt Nam đã trải qua nhiều thế kỷ làm quen với thơ luật Đường của Trung Quốc. Đó là một thứ thơ gắn chặt với tâm thức của người trung đại và trong nhiều thế kỷ thơ Đường đã trở thành như quốc thi của người Việt.
6. Ngoài một số điều kiện kể trên, để góp phần lý giải sự gặp gỡ giữa thơ Mới và thơ tượng trưng, còn có những điều kiện khác không những chỉ liên quan đến một bộ phận thơ mà còn liên quan đến một bộ phận thơ mà còn liên quan đến toàn bộ phong trào thơ, đó là nhân tố thời đại trên phạm vi quốc tế.
Nhìn lịch sử phát triển văn học, không chỉ ở Việt Nam mà ngay cả ở các khu vực khác, sự vận động trong đời sống văn học thế kỷ XX được dựa trên nền tảng của những giao lưu và trao đổi quốc tế. Vấn đề này thực ra cũng không phải ở thế kỷ XX mới đặt ra, vấn đề là giao lưu và trao đổi ở thế kỷ XX khác các thế kỷ trước về quy mô và mức độ, tất cả đều có tính toàn cầu. Chủ nghĩa tượng trưng, mặc dầu nó là một thi phái ra đời trên cơ sở những điều kiện lịch sử cụ thể của nước Pháp những thập niên cuối thế kỷ XIX, nhưng sau đó nó trở thành một phong trào thơ rộng lớn cả châu Âu và không chỉ ở lĩnh vực thơ ca, các bộ môn nghệ thuật khác cũng có xu hướng theo phong cách tượng trưng.
Điều đáng lưu ý ở thời điểm cuốI thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX là xu hướng trở lại với đời sống hồn nhiên bộc phát, tư tưởng duy lý đã bộc lộ một cách mạnh mẽ tính chất bất tín nhiệm của nó. Người ta đã nhận thấy được những cố gắng của bao thế kỷ con người kiên trì đan cái lướI lý trí và tham vọng dùng nó để thâu tóm tất cả những sự thật lung linh của tạo vật đã không thể nào thực hiện nổi. Brunetiere đã nghĩ tới “sự phá sản của khoa học” và tán dương những gì bất luận lý, những phương pháp duy lý bị chính con người phương Tây lên án, bài bác và họ cho rằng “không thể dùng tam đoạn luận để rút tỉa lấy linh hồn sự vật cũng như không thể dùng câu liêm để kéo con quỷ Léviathan trong thánh kinh” (4). Những văn nghệ sỹ châu Âu cuốI thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX từ chỗ khước từ dần quyền năng của lý trí phổ quát đã nhắm ngòi bút của mình vào cuộc sống linh động để tìm tòi, họ tin tưởng rằng vũ trụ sẽ không chịu tiết lộ bí mật cho bất kỳ người nào chỉ biết tra vấn cuộc sống bằng những sự tính toán rạch ròi và những gì là tinh tuý của đời sống luôn nằm ngoài nhận thức duy lý. Họ đua nhau đi tìm ngọn nguồn của đời sống chưa bị trí khôn bế toả, vì “đời sống chúng ta nhiệm màu, nó tránh xa phản ảnh của lý trí… nó bị lôi cuốn bởi cái huyền bí và nó chống lại sự an bài của phép tắc ngoại hiện”.