Có thể nói đóng góp lớn lao cho sự thành công của tập Truỵện ngắn Tây Băc chính là “Vợ chồng A Phủ”. Xét riêng trong truyện này nhân vật giàu ấn tượng nhất, sinh động nhất là Mỵ. Bức chân dung về nhân vật trung tâm của tác phẩm là sự phối hợp của những mảng màu hoàng hôn u ám và bình minh rạng ngời ; của khát vọng sống, khát vọng tự do tiềm ẩn mãnh liệt trong cái hình xác nô lệ. Phát hiện và sáng tạo nhân vật Mỵ trong truyện, Tô Hoài đã chứng tỏ là cây bút bậc thầy trong việc khám phá những miền sống lẩn khuất trong thẳm sâu con người nơi mảnh đất cuối trời tây Bắc ở thời kỳ đen tối.
1. Tóm tắt cốt truyện
Mị, một cô gái xinh đẹp, yêu đời, có khát vọng tự do, hạnh phúc, bị bắt về làm con dâu gạt nợ cho nhà Thống lí Pá Tra.Lúc đầu Mị phản kháng nhưng dần dần trở nên tê liệt, chỉ “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”.Đêm tình mùa xuân đến, Mị muốn đi chơi nhưng bị A Sử (chồng Mị) trói đứng vào cột nhà.
A Phủ vì bất bình trước A Sử nên đã đánh nhau và bị bắt, bị phạt vạ và trở thành kẻ ở trừ nợ cho nhà Thống lí.Không may hổ vồ mất 1 con bò, A Phủ đã bị đánh, bị trói đứng vào cọc đến gần chết.Mị đã cắt dây trói cho A Phủ, hai người chạy trốn đến Phiềng Sa.Mị và A Phủ được giác ngộ, trở thành du kích.
Chủ đề: Qua việc miêu tả cuộc đời, số phận của Mị và A Phủ, nhà văn đã làm sống lại quãng đời tăm tối, cơ cực của người dân miền núi dưới ách thống trị dã man của bọn chúa đất phong kiến, đồng thời khẳng định sức sống tiềm tàng, mãnh liệt không gì hủy diệt được của những kiếp nô lệ, khẳng định chỉ có sự vùng dậy của chính họ, được ánh sáng cách mạng soi đường sẽ dẫn tới cuộc đời tươi sáng.
2. Phân tích Hình ảnh Mỵ
2.1. Mỵ và cuộc sống làm dâu gạt nợ trong nhà thống lý Pá tra
Mỵ -Hình ảnh cô gái Mèo hoàn thiện
Mỵ xuất hiện trong lời kể về thời qúa khứ của cô là cô gái Mèo hoàn thiện, bông hoa ban thuần khiết của núi rừng Tây Bắc. Xuất thân trong một gia đình nghèo nhưng Mỵ được thiên phú hình dáng và nhiều tư chất tốt đẹp. Mỵ không chỉ đẹp mà trong cô còn ẩn tàng sự yêu đời, ham sống, say sưa với mối tình đầu. Những ngày tháng tuỏi trẻ của cô trôi đi êm đềm đến trong tình thương của bố, trong âm thanh tuổi trẻ và sắc màu đêm hội đất mièn tây. Mỗi ngày sống, trái tim cô như tràn căng hồi hộp sung sưởng chờ nghe âm thanh tiếng sáo quen thuộc của người yêu.
Mỵ đồng thời là cô gái chăm làm, một dứa con hiếu thảo, biết xa lánh cái ác và biết trân trọng nâng niu tình yêu của mình, giàu lòng tự trọng. Sức trẻ và sự thánh thiện dồn tụ trong Mỵ, và với nó Mỵ hy vọng đứng vững giữa cuộc đời với khát khao tự do làm chủ cuộc sống. Mỵ tâm sự với cha mình ” con nay đã biết cuốc nương làm ngô, con phải làm ngô để trả nợ cho bố”.
Nhưng số phận “những bông hoa” xinh đẹp và đầy sức sống ấy, ở thời điểm lịch sử này đến chung chịu số phận đau thương – đó là một tất yếu. Tô Hoài đã nhận rõ được cái lo gic nghiệt ngã này và “nàng Kiều” đất miền tây cũng không thoát khổi nỗi đa đoan đoạn trường.
Mỵ – Hình ảnh người đàn bà nô lệ
Cái đau đớn của số phận Mỵ bắt đầu từ một thứ tội truyền kiếp mãn tính của người nghèo, đó là không tiền của tất yếu sẽ trở thành nô lệ. Bố Mỵ vay tiền của Pá tra – số nợ lãi đến khi mẹ cô chết mà bố vẫn không trả hết. Mỵ đã trở thành vật thế gán nợ và thành nô lệ trong hoàn cảnh khắc nghiệt như thế. Và cũng bắt đầu bằng một nguyên nhân đau đớn bi phẫn, đó là “lỗi” của người xinh đẹp với phẩm hạnh trắng trong! Mỵ trở thành cô con dâu gạt nợ, một thứ “hàng hóa” trao đổi.
Phản ứng của Mỵ những ngày đầu là mấy tháng ròng, đêm nào Mỵ cũng khóc và định tự tử. Đây là phản ứng tự nhiên của cô gái trẻ yêu đời bỗng nhiên bị tước đoạt hết tự do; đồng thời cũng là phản kháng quyết liệt của con người ham sống muốn kiếm tìm một cuộc sống cho ra sống. Cuộc sống với tất cả tự nhiên của kiếp người chứ không phải vật vờ tồn tại trú ngụ cái rỗng không trong thể xác.
Tuy nhiên phản kháng của Mỵ bị chặn đứng, Tô Hoài thêm một lần cho thấy bản lĩnh khai thác các mối liên hệ chi phối nội tâm con người. Kiều hơn một làn quên sinh tránh ô nhục – thoát kiếp đoạn trường. Và nếu Kiều chết, sẽ không còn sự vương vấn nào về món tiền “ba trăm lạng”. Nhưng ở đây, Mỵ xót xa hơn, Mỵ chết – món nợ vẫn còn; và đương nhiên, cha cô phải là người gánh chịu tủi hờn đến hết kiếp. Và bi kịch xuất hiện, muốn chết mà không thể chết, đây cũng chính là nguyên nhân ý thức cam chịụ xuất hiện trong Mỵ.
Những năm tháng sống Pha Tra là chuỗi ngày địa ngục, Mỵ xuất hiện trong không gian ấy như một cái bóng, suốt ngày cúi mặt im lặng. Đó vẫn chưa phải nỗi đau đớn thật sự, Nhà văn đã tìm ra sự thê thảm của nhân vật, đó là ý chí của Mỵ bị mài mòn. Trong đầu Mỵ, những suy nghĩ khát vọng, âm thanh sắc màu thời xưa cũ đã mờ chìm; thay vào đó là cái phải nhớ, quanh quẩn lặp đi lặp lại tẻ ngắt như một vòng tròn nặng nề không lối thoát: ” Mỵ cúi mặt không nghĩ nữa, mà lúc nào cũng chỉ nhớ đi nhớ lại những việc giống nhau, tiếp nhau vẽ ra trước mắt … con ngưạ, con trâu làm còn có lúc nghỉ..đàn bà con gái nhà này thì vùi đầu làm việc cả đêm cả ngày”.
Cùng với công việc nặng nhọc triền miên là sự hành hạ trực tiếp của cha con Thống lý trên thân xác, bản thân Mỵ bị đánh, trói và từng chứng kiến không biết bao nhiêu người bị hành hạ đến chết. Ý chí của Mỵ dần bị đè bẹp dưới sức mạnh tàn bạo thời trung cổ, mà hệ quả của nó là làm cho nỗi cay đắng đen tối luôn đọng lại đặc quánh trong Mỵ, cô tự rút ra kết luận: mình không bằng con ngựa. Và rồi hành động của cô tê liệt : lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa.
Tuy nhiên nỗi đau khổ tinh thần mới là thật sự là nỗi đau tê tái, nó biến Mỵ thực sự trở thành “con vật”mang tên người. Mất tình yêu đầu là nỗi đau tinh thàn quá khứ, nhưng đau hơn, xót hơn là Mỵ không được phép nghĩ về nó; bởi mỗi ý nghĩ về tình xưa ở nơi cô đồng nghĩa với sự phạm tội ghê gớm. Chúa đất miền núi và tập tục cúng ma do chúng lập nên, đã ràng buộc mội cô gái có chồng và Mỵ sống song tồn với một ý nghĩ : Mình đã ” trình ma” Thống lý thì chỉ có còn cách chết rũ xương ở đây. Tô Hoài đã sắc sảo nhìn thấy việc tập tục mê tín thần quyền bắt tay với giai cấp thống trị tạo ra một thứ “thuốc phiện tinh thần” trói chặt đời Mỵ, nô dịch tinh thần cô.
Mỵ bị cấm đoán trong việc hoà nhập cộng đồng. A sử trói Mỵ, dùng bạo lực quyết liệt tách Mỵ ra khỏi thế giới con người. Vì vậy, bên trong thể xác tơi tả của Mỵ là tâm hồn cô đơn trống rỗng, nếu còn một mảnh nhỏ cũng bị cào nhàu nát. Thể xác ấy, tâm hồn ấy bị giam hãm trong không gian chật hẹp tù đọng, làm cho nỗi đau thêm chồng chất, sự bất lực đến cực cùng. Tô Hoài xây dựng đoạn truyện đầy ản dụ về căn buồng của Mỵ, và với nó, nhà văn giúp người đọc hình dung được nỗi đau tột cùng của kiếp người nô lệ.
Trong không gian oi ngạt ấy, thời gian như ngưng đọng. Trước mát Mỵ chỉ là sắc màu hoàng hôn dài đằng đẵng buồn tẻ, tê tái. Mỵ thực sự không còn sống nữa mà chỉ còn là một sinh thể tồn tại chậm chạp bước về cõi chết. Cách áp chế ấy của gia đình thống lý Patra, đã tạo ra những hệ quả ghê ghớm, nó đập vỡ biến dạng tâm hồn vốn trong như pha lê của cô gái trẻ trung yêu đời là Mỵ.
Phần đầu truyện Mỵ chỉ chỉ nói một câu duy nhất còn lại là im lặng khuất phục, nhưng Mỵ cũng đã nuôi ý định tự vẫn. Còn bây giờ, Mỵ không buồn nghĩ đến cái chết nữa. Đây là một tình tiết khám phá xuất sắc về nội tâm nhân vật của nhà văn; bởi khi con người nghĩ về cái chết, tức là còn tha thiết sống cuộc sống, muốn tìm cuộc sống tốt hơn và phủ nhận thực tại. Nhưng khi không buồn nghĩ đến cái chết thì đã là sự buông thả số phận cho định mệnh mà không còn ý niệm về sự tồn tại của mình. Lo gic phát triển tâm lý ở Mỵ đã đến cái đỉnh bi kịch ấy. Với cô, thời gian không còn ý nghiã, không còn gợi cảm xúc và hình ảnh cuộc sống chỉ còn là màn sương mờ đục. không quá khứ hiện tại. Nhưng ghê gớm hơn cả là sự tàn bạo đã làm cho Mỵ mất mát điều lớn nhất đó là : đánh mất tình đồng loại. Cô gái có trái tim nhạy cảm ngày xưa bây giờ hóa đá, chính bởi vậy,trước cái chết đang ập xuóng đầu A Phủ mà Mỵ vẫn bình thản, đó là thái độ tàn nhẫn không thể có ở con người.
Toàn bộ những tình tiết truyện đen tối, vây bủa Mỵ, có sức gợi rất mạnh về bối cảnh xã hội phong kiến và thần quyền miền núi. Đó là bản cảo trạng về sự tước đoạt quyền sống của những con người lương thiện vô tội đến triệt để mà Mỵ là nhân chứng. Tội phạm tạo lên bi kịch đó là cha ccon Thống lí và xã hội miền núi đen tối một thời. Và hình ảnh Mỵ cũng trở thành hình ảnh khái quát cho những thân phận nghèo hèn nô lệ nơi miền đất núi rừng âm u tù hãm. Con đường mà họ đi chỉ là hành trình dưới roi vọt cường quyền, trong cái nhà tù oi ngạt khổng lồ là xã hội phong kiến miền núi.
2.2. Hình ảnh Mỵ với sức sống tiểm ẩn và sự trỗi dậy mãnh liệt
Khi đọc Chí Phèo, người đọc đã chứng kiến một Chí Phèo từ người biến thành “ con quỷ dữ làng Vũ Đại”, thế nhưng chỉ một bát cháo hành của Thị Nở, một hòn than nhân tính nhỏ trong cái đống tro tàn Chí Phèo bỗng bốc cháy một khát vọng làm người lương thiện. Trong “Vợ chồng A Phủ”, Tô Hoài cũng đã tìm được hòn than nhân tính ấy. Bởi thế, Mỵ cô gái hồn nhiên tươi trẻ với bao khát vọng đã bị áp chế của thế giới bạo tàn làm cho gục ngã và biến đổi chỉ còn là chiếc bóng đã hồi sinh.
Sức sống tiềm tàng mãnh liệt
Phát hiện của Tô Hoài là tìm thấy một sự thật nhân văn, đó là, song tồn với cuộc sống đen tối còn có một cuộc sống khác tiềm ản trong Mỵ. Nhà văn đã đi sâu vào tận cùng cuộc sống nội tâm nhân vật, phát hiện khơi gợi nó và ông đã tìm thấy nơi ấy vẫn nén chứa một tiềm năng ham sống khát khao hạnh phúc.
Phản ánh sức trỗi dậy của Mỵ, Tô Hoài xây dựng một hoàn cảnh điển hình làm bối cảnh hồi sinh của tâm hồn cô gái Mèo nô lệ. Đây là một dụng công tinh tế, nhờ nó mà trước hết bản năng con người tự nhiên được trỗi dậy. Thiên nhiên chuyển mùa và những vang động của cuộc sống đã tác động vào tận cùng ngõ sâu góc khuất của tâm hồn bị băng giá đóng cứng lại và hơi ấm của nó đã làm cho sự băng giá ấy rã dần. Hình ảnh mùa xuân về trên vùng núi cao, trong chuyện thật tươi đẹp với sắc màu sinh động: ” váy hoa đem phơi trên đá xoè ra như những con bướm sặc sỡ, hoa thuóc phiện nở trắng đồi màu đỏ hoa, đỏ thẫm rồi sang màu tím man mác”. Bên sắc màu là âm thanh, là tiếng cuộc sống rộn rã; tiếng trẻ cười chơi quay và tiếng sáo gọi bạn tình…Nhà văn dường như đã đến “gõ cửa” tâm hồn nhân vật tái hiện cái khoảnh khắc ngày chuẩn bị đón xuân, tạo vật và con người bừng tỉnh. Hoàn cảnh ấy tác động vào tâm hồn Mỵ. Trong thế giới thâm cung lạnh lẽo u ám ấy, dù không nhìn thấy sắc màu, nhưng âm thanh tiếng sáo lay động Mỵ làm cho cô bừng thức. Chi tiết tiếng sáo được chọn làm đối tượng tác động lay thức Mỵ là sự tinh tế của ngòi bút Tô Hoài, bởi chỉ có âm thanh mới thực sự xuyên được những bức tường dày, những cánh cửa khép, để rồi tưới lên, thúc gọi trái tim cô quạnh héo úa làm cho nó hồi sinh. Và cũng bởi tiếng sáo ấy gắn liền thời quá khứ mộng mơ của Mỵ mà sự thăng hoa nhất ngọt ngào nhất là tiếng gọi của mối tình đầu.
Chính nhờ nó, niềm u mê tăm tối, nỗi lung linh hồn Mỵ lạc lối đã được đánh thức. Mỵ vươt ra khỏi tâm trạng thờ ơ của mình bấy lâu nay, tâm hồn cô trở về với đời sống thực tiến, trong óc cô tái hiện kỷ niệm đẹp của một thời con gái: uống rượu chơi xuân, nhịp sáo tình yêu dìu dặt… Mỵ đã vượt tình trạng “sống thực vật”, phí thời gian và bắt đầu sống với những niềm vui chỉ trong chốc lát. Trong khoảng sống trở lại ấy lần đầu tiên Mỵ có hành động, phản ứng đầu tiên là ý nghĩ muốn chết “nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này Mỵ sẽ ăn cho chết ngay”. Phản ứng ấy khẳng định rằng, Mỵ đã thực sự sồng lại, lý trí sáng suốt đã phân tích cho Mỵ hiểu rằng hoàn cảnh sống thực tại là vô cùng đau xót tủi hờn.
Nhưng tiếng sáo ( trong hoàn cảnh điển hình được xây dựng ) vẫn thôi thúc quyến rũ ” tiếng sáo gọi bạn tình vẫn lơ lửng bay ngoài đường” tác động vào con người hồi sinh của Mỵ, và mạnh hơn, nó xâm nhập vào trong tâm hồn và lý trí của cô tồn taị và sống trong đó, thôi thúc day dứt ” trong đầu Mỵ đang rập rờn tiếng sáo”. Tiếng sáo khơi gợi sức sống như những đợt sóng ào ạt, những sục sôi trong miền khuất lấp đã trỗi dậy thành hành động: “ Mỵ đến góc nhà lấy ống mỡ xoắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng”. Xây dựng nhiều hình ảnh trong đoạn truyện này, nhà văn đã biểu đạt được hành động thức tỉnh của nhân vật. Mỵ thắp đèn lên soi rọi vào chính cõi u mê của mình, thoát khỏi đêm tối triền miên của quá khứ, thay đổi cái không gian lúc nào cũng bàng bạc như hoàng hôn mà Mỵ lâu nay vẫn tồn tại. Mỵ đã tự hành động như một con người tự do, tự đi theo tiếng gọi của lòng mình: quấn lại tóc, rút váy hoa … sửa soạn chơi tết. Đoạn truyện toát lên một tinh thần nhân văn cao đẹp, Tô Hoài đã gửi đến thông điệp, con người dù cùng cực và bị nhấn chìm trong đen tối đến mấy, thì trước sau vẫn là con người. Vấn đề đặt ra là cái gì, bối cảnh nào sẽ nâng họ dậy và đỡ họ trở lại với nhịp cuộc đời.
Giữa lúc lòng ham sống vừa xuất hiện, thì A Sử đến cùng với những sợi dây trói. Động tác trói vợ của A Sử rất thản nhiên, rành rẽ. Một hành động trong bối cảnh cụ thể của truyện, gợi cảm nhận sự tàn ác đến lạnh lùng của thế giới bạo tàn không còn lương tri. Nhưng cái chính là cái tàn nhẫn ấy càng làm khát vọng của con người trở lên mãnh liệt, một khi họ đã vượt qua cái chết, sự quằn quại đau đớn và đã hồi sinh. Mỵ bị trói, nhưng tiết tấu của cuộc sống vẫn gọi thiết tha ” tiếng sáo đưa Mỵ đi theo những cuộc chơi, những đám chơi … Mỵ vùng bước đi”. Đoạn văn đã miêu tả thành công cuộc giằng xé quyết liệt giữa khao khát hạnh phúc cháy bỏng và thực tại tàn nhẫn lạnh lùng. Xét phương diện tinh thần thì Mỵ đã thắng; khát vọng của Mỵ trào ra khỏi, “Bung phá” những sợi dây trói khắc nghiệt vô tình. Tuy nhiên khát vọng ấy thực tế vẫn bị đè bẹp, lằn dây trói cứa vào làn da thịt, làm Mỵ tỉnh lại, giấc mộng tan biến thay vào đó là ý nghĩ cay đắng ” Mỵ thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa”; và như vây cuộc vùng dậy làn thứ nhất của Mỵ thất bại, sự quẫy đạp vươn dậy không đủ sức mạnh dể thay đổi số phận.
Hành động tự giải phóng
Đột biến lớn nhất làm thay đổi kiếp sống của Mỵ là đêm Mỵ quyết định cứu A Phủ. Khởi đầu là tâm trang lạnh lùng thản nhiên của Mỵ khi nhìn A Phủ bị trói đứng ” Mỵ thản nhiên thổi lửa hơ tay. Nếu A Phủ là cái xác chêt đứng đấy cũng thế thôi”. Tâm hồn vốn nhân hậu đã rơi vào vô cảm, nhưng nước mát A Phủ đã đánh thức trái tim Mỵ. Thoát ra khỏi vô cảm, My sống dậy bằng những hồi ức run rẩy nơi trái tim đầy thương tích của chính cô: Mỵ nhớ lại A Sử trói Mỵ; Cảm giác thương thân làm tăng thêm xúc cảm thương người để rồi bật lên tiếng kêu ” trờì ơi nó bắt trói đứng người ta đến chết “. Lần đầu tiên sau bao nhiêu năm trời trong cái thế giới nhà Thống lý, Mỵ mới bật kêu được thành tiếng con người. Mỵ đã thực sự sống lại hoàn toàn, với ý nghĩa là con người đầy đủ nhân cách; và do vậy đến đây, lòng thương người đã trở thành sức mạnh lấn át nỗi thương thân. Lòng nhân hậu trong Mỵ đã hồi sinh, và chính nó trở thành động lực giúp Mỵ chiến thắng nỗi sợ, thúc đẩy cô có hành động cứu người: Mỵ rút dao cắt dây cứu A Phủ. Hành động xong, nỗi sợ xuất hiện nhưng bản năng tự vệ tích cực đã kích thích hành động tiếp theo Mỵ chạy theo A Phủ, với lời giải thích ngắn gọn “ở đây thì chết mất”. Mỵ đã trở về là Mỵ tư cách là con người và trưởng thành về nhận thức, cô thấy rõ được bộ mặt của thế giới bạo tàn, kiên quyết từ bỏ nó. Hành động chạy trốn của Mỵ là hành động chạy theo khát vọng tự do mà bấy lâu bị nén chặt. Mỵ tự thoát ra khỏi bóng đêm để đến với ánh sáng; tự đập vỡ không gian oi ngạt cầm tù mở ra cuộc đời mới cho chính bản thân mình, mặc dù ở thời điểm này, hành động ấy vẫn là tự phát
3. Đánh giá chung.
Nhân vật trung tâm Mỵ được xây dựng thành công và là hình ảnh văn học đặc sắc. Trang viết về Mỵ ở phần đầu truyện đầy ấn tượng, trong đó có những đoạn viết thăng hoa. Tài năng độc đáo của Tô Hoài là xây dựng lên những nghịch cảnh diễn biến tinh vi trong con người Mỵ. Một cô gái xinh đẹp nhưng gánh chịu số phận đa đoan, một nội tâm đầy mâu thuẫn. Các tình tiết viết về Mỵ hầu hết là đối thoại nội tâm, hay nói cách khác Mỵ hiện lên troing truyện bằng những tình tiết thoát ra từ miêu tả nội tâm. Những cuộc đối thoại nội tâm đã dẫn đến kết cục bất ngờ nhưng hoàn toàn hợp lý và lo gic.
Hành động cứu A Phủ là hành động táo bạo có ý nghiã quyết định đời Mỵ và mở ra cuộc sống mới. Ở đó, Mỵ và A Phủ thành vợ thành chồng, cùng đội du kích đánh giặc bảo vệ bản làng ở miền đất mới Phiềng xa. Hành động ấy khẳng định cuộc sống vốn tiềm tàng và phong phú, những đau khổ và khát vọng tự do đều tồn tại trong Mỵ từ trước, vấn đề đặt ra là cái gì khơi gợi cho sự tích cực trỗi dậy chiến thắng. Hành động giải phóng (Cứu A Phủ và cứu mình) là hành đông tự phát, và nó trở thành phát trỉiển tự giác ở đoạn sau của tác phẩm. Nhưng Tô Hoài đã tạo ra được cái khác biệt giữa nhân vật Mỵ với các nhân vật: Thúy Kiều (Truyện Kiều – Nguyễn Du) hay Vũ Nương (Người con gái Nam Xương – Nguyễn Dữ)… ở chỗ bông hoa xứ Mèo không tìm đến một thế giới ảo tưởng, hoặc một vòng vây đen tối bi kịch mới, mà là khát vọng vùng lên tìm một con đường sống với sự đổi thay và tự do triệt để.