Sách ebook được sưu tầm từ Internet, Bản quyền sách thuộc về Tác giả & Nhà xuất bản. Trang Web hiện đặt quảng cáo để có kinh phí duy trì hoạt động, mong Quý Bạn đọc thông cảm ạ.

Văn Mẫu Lớp 12

Phân tích truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân

Tác giả: Sach Vui
Thể loại: Sách Giáo Khoa
Chọn tập

Kim Lân tên khai sinh là Nguyễn Văn Tài. Ông sinh ngày 1/8/1920, quê ở làng Phù Lưu, xã Tân Hồng, huyện Tiên Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Do hoàn cảnh gia đình khó khăn, ông chỉ được học hết bậc tiểu học rồi phải đi làm. Kim Lân bắt đầu viết truyện ngắn bắt đầu từ năm 1941. Tác phẩm của ông được đăng trên các báo “Tiểu thuyết thứ bảy” và “Trung Bắc chủ nhật”. Một số truyện (“Đứa con người vợ lẽ”, ” Đứa con người cô đầu”, ”Cô Vịa”…) mang tính chất tự truyện, nhưng đã thể hiện được không khí tiêu điều, ảm đạm của nông thôn Việt Nam và cuộc sống lam lũ, vất vả của người nông dân. Ông được dư luận chú ý nhiều hơn khi đi về đề tài độc đáo: tái hiện sinh hoạt văn hoá phong phú ở thôn quê (đánh vật, chọi gà, thả chim…). Các truyện: ”Đôi chim thành”, ”Con mã quái”, ”Chó săn”… kể lại một cách sinh động những thú chơi lành mạnh, qua đó thể hiện một phần vẻ đẹp tâm hồn của người nông dân trước Cách mạng _những người sống cực nhọc, khổ nghèo nhưng vẫn yêu đời, trong sáng, tài hoa. Sau Cách mạng tháng tám, Kim Lân tiếp tục làm báo, viết văn. Ông vẫn chuyên về truyện ngắn và vẫn viết về làng quê Việt Nam _mảng hiện thực mà từ lâu ông đã hiểu biết sâu sắc. Những tác phẩm chính: ”Nên vợ nên chồng” (tập truyện ngắn 1955), ”Con chó xấu xí” (tập truyện ngắn 1962). Trong cả hai giai đoạn sáng tác, tuy viết không nhiều nhưng giai đoạn nào Kim Lân cũng có những tác phẩm hay. Là một cây bút vững vàng, ông đã viết về cuộc sống và con người ở nông thôn bằng tình cảm, tâm hồn của một người vốn là con đẻ của đồng ruộng. Nói như Nguyên Hồng, ông là nhà văn một lòng đi về với “đất”, với “người”, với “thuần hậu nguyên thủy” của cuộc sống nông thôn (Bước đường viết văn NXB Văn học Hà Nội 1971). (SGK Văn học 12)

Với một tâm hồn luôn hướng về cuộc sống và con người nông thôn, Kim Lân luôn đặt ra những vấn đề xã hội làng quê rất tự nhiên và gần gũi, dễ đi vào lòng người đọc. Đặc biệt dựa trên bối cảnh nạn đói năm 1945, Kim Lân đã thể hiện tài năng của mình qua tác phẩm “Vợ Nhặt”_một tác phẩm thấm đẫm tinh thần nhân đạo, phản ánh cuộc sống nghèo khổ, cơ cực và khát vọng về hạnh phúc gia đình của người nông dân Việt Nam trong thời Pháp thuộc. Qua đó bày tỏ tiếng nói chung của những người nông dân trong thời chiến và những ao ước giản dị của họ, tạo nên sự đồng cảm và suy nghĩ trong lòng người đọc.

Ngay trong tựa đề, Kim Lân đã gợi sự tò mò cho người đọc. Chuyện dựng vợ gả chồng là chuyện hệ trọng trong cả đời người, thế mà Kim lân lại dùng hình ảnh “Vợ Nhặt”, một sự gặp gỡ tình cờ và nhanh chóng tiến đến hôn nhân trong cái bối cảnh hiện thực của truyện ngắn là nạn đói mùa xuân Ất Dậu 1945, một trong những thời kỳ đen tối trong lịch sử. Kim Lân đã thổi vào tác phẩm thứ ánh sáng nhập nhoạng, mù mờ của một buổi tối chiều “chạng vạng”. Và thấp thoáng trong thứ ánh sáng đó là hình ảnh những con người “xanh xám như những bóng ma”, ”nằm ngổn ngang khắp lều chợ”, ”những cái thây nằm cong queo bên đường”, một cuộc sống đang mấp mé bên bờ vực thẳm giữa sự sống và cái chết, một không khí “vẩn lên cái mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người”. Những yếu tố mở đầu cho tác phẩm đã gợi lên một không khí nặng nề, phản ánh được cuộc sống của người nông dân lúc bấy giờ mới khó khăn, cực nhọc đến dường nào, gây xúc động cho mỗi chúng ta khi ông cha ta đã trải wo những thời gian khó khăn, ăn “bo bo” thay gạo, chịu đói rét.

Trong khung cảnh đó, nhân vật Tràng hiện lên như một con người hoang sơ ngật ngưỡng bước đi trong ánh chiều tàn của một cuộc sống không ra cuộc sống. Tràng được Kim Lân miêu tả với diện mạo chung của người dân lúc bây giờ: hai con mắt gà gà, nhỏ tí, hai bên quai hàm bạnh ra, bộ mặt thì thô kệch, thân hình thì “vập vạp”, cùng với cái kiểu “ngửa mặt lên cười hềnh hệch”, ”cái đầu trọc nhẵn”, ”cái lưng to rộng như lưng gấu”, và cái áo nâu tàng vắt ở một bên tay, một hình ảnh hết sức hoang dã trong xã hội đói nghèo. Ngay cả nơi ở của Tràng cũng không kém phần hoang dã như thế: cành dong rấp cổng, tấm phên rấp che nhà, mảnh vườn lổn nhổn toàn cỏ dại, mà Tràng cũng chỉ là kẻ ngụ cư, loại người lúc bấy giờ bị coi khinh, ruồng bỏ, một thứ cỏ rác hương thôn. Và Kim Luân đã dùng sáng tạo nghệ thuật của mình, gây ra những bất ngờ cho người đọc ở đầu truyện : ”Giữa cái cảnh tối sầm lại vì đói khát ấy, một buổi chiều người trong xóm bỗng thấy Tràng về với một người đàn bà nữa. ”Một người đàn bà đã bước vào cuộc sống của Tràng.

Tràng có vợ. Người như Tràng mà có vợ. Cái “kẻ” mang bộ dạng giống như con gấu hoặc gốc cây xù xì, trần trụi ấy, lại trong một cuộc đời đang bị đẩy sát tới cái ranh giới phân chia giữa tồn tại và ko tồn tại thế kia, mà lại nhặt được “thứ” vốn biểu trưng cho hạnh phúc. Tràng có vợ một cách hiển hách, oanh liệt, cứ như một anh chàng tốt số, đào hoa: chỉ buông ra có một lời ỡm ờ tán tỉnh, mà “cô nàng” đã vội vã theo không. Tưởng đâu một truyện truyền kỳ về một thời thảm hại. Nhưng đó không phải là một chuyện cổ tích hay theo một mô tuýp chàng ngốc gặp tiên nữ, nhưng đây lại là một sự thật não lòng. Người vợ mà được Tràng nhặt về được trên đường đời thảm đạm cũng thuộc về một dạng người giống như Tràng. Chân dung của chị ta cũng là một bức ký họa khác với tự nhiên, với những đường nét tai hại cho người phụ nữ: ”cái ngực gầy lép, khuôn mặt lưỡi cày xám xịt”,.. gầy xọp, rách mướt, ” áo quần tả tơi như tảo đỉa”, đấy là hình ảnh người đàn bà đã làm đảo lộn cuộc đời Tràng. Nhưng khéo nhất là những dòng được viết, Kim Lân cho ta nhận thấy: cái người phụ nữ đói rách kia còn xa mới có thể coi là hiền thục;làm sao mà Kim Lân có thể tả cái đanh đá, cái trơ của người đàn bà lao động nghèo tài thế, sinh động đến là như thế. Kim Lân cũng rất tài tình khi tả vợ của Tràng rất cong cớn nhưng không nanh nọc, trơ trẽn. Và cũng chính cái cong cớn, sưng sỉa, đanh đá, trơ trẽn kia, nó có thể sinh ra từ dốt nát, đói nghèo, tâm tối chứ tuyệt không sinh ra từ cái ác, cái xấu xa.

Vậy là hai thân phận bọt bèo ấy đã dạt đến nhau qua những lời yêu đại loại như: ”Rích bố cu, hở”, ”Hà, ngon!Về chị ấy thấy hụt tiền thì bỏ bố”, ”Làm đếch gì có vợ. Này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về. ”. Đó là ngôn ngữ của tình duyên, hay cũng chỉ là bốn bát bánh đúc mà người đàn ông nổi hứng khao và người đàn bà cắm đầu ăn liền một chập, chẳng buông một lời trò chuyện gì. Bốn bát bánh đúc trong những ngày tháng đói kém, chúng đủ phép màu để làm hai con mắt trũng hoáy của người phụ nữ đói rách sáng lên. Có xót xa không, khi cái đói tuy mang lại nhiều đau khổ lại cũng có thể xe duyên cho một mối tình giữa hai tâm hồn cũng nghèo khó. Điều đó, ta nhận thấy dường như không có sự cách biệt giữa Kim Lân và người nông dân, nên ông mới có thể miêu tả người nông dân trong những năm nghèo đói mới chân thật đến như vậy, và những tình tiết có vẻ buồn cười thì bên dưới đó lại là những nỗi buồn và niềm thương cảm. Những trang viết về những con người “dưới đáy” thế này thì không làm ta khinh ghét họ mà xót thương và buồn cho họ vì họ không thể sống trong điều kiện tốt hơn trong cái xã hội mà được mọi người gọi là con người mà chính cái xã hội đó cũng đang từ bỏ họ, để mặc họ trong cái nghèo đói. Ở đây, tác giả không phải nói về những nét thấp kém của con người bộc lộ qua nhân hình và nhân cách. Ngược lại, với việc đặt nhân vật vào một khoảng sống mờ tối, lắt lay, nhà văn đã tìm ra một cơ hội song để biểu hiện nỗi bất diệt của niềm khao khát thèm được sống, được thương yêu và hy vọng. Niềm ao ước hạnh phúc đó không thể diệt trừ cái đói hay sự u tối của một tương lai không mấy sáng sủa và nó cũng không bị diệt trừ. Nó cứ âm thầm vươn lên từ đói khát, tối tăm và chính bởi thế mà nó trở nên cảm động và đáng qúy biết chừng nào.

Khi “nhặt” vợ về, Tràng không phải là không biết suy nghĩ: ”thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không lại còn đèo bồng”. Nhưng rồi anh lại tặc lưỡi: “Chậc, kệ!”. Một quyết định có vẻ rất tầm thường với một sự việc hết sức trọng đại trong thời điểm bấy giờ. Nhưng ta có thể hiều rằng, cái tặc lưỡi đó đồng nghĩa với việc là Tràng đã đánh cuộc với đời, với cái nghèo đói, để sống “đầy đủ” cuộc sống bình thường như mọi người. Đó là khát vọng làm người mà một kẻ thô kệch, chất phác như Tràng vẫn có đã khiến Tràng liều lĩnh một phen. Và Tràng cũng đã được đền bù: ”Trong một lúc, Tràng hình như quên hết những cảnh sống ê chề, tăm tối hàng ngày, quên cả cái đói khát ghê gớm đang đe dọa từng ngày, và quên cả những tháng ngày trước mặt. Trong lòng hắn bây giờ chỉ còn tình nghĩa giữa hắn và người đàn bà đi bên. Một cái gì mới mẻ, lạ lắm, chưa từng tấhy ở người đàn ông nghèo khổ ấy, nó ôm ấp, mơn man khắp da thịt Tràng, tựa hồ như có bàn tay vuốt nhẹ trên sống lưng. ”Qua đó, Kim Lân đã gieo vào lòng người đọc những cảm xúc: Khác với những người có đầu óc bi quan thường nghi, sự đói khát, nghèo khổ không làm giảm đi giá trị của lòng người. Bao giờ cái hạnh phúc được thương yêu cũng qúy hơn tất cả, ngay cả khi người ta tưởng như rằng không còn cần gì hơn là một miếng cơm ăn.

Con người ai ai cũng mong có được hạnh phúc. Và Kim Lân, hạnh phúc, đến lượt nó, lại có thể làm thay đổi cả một con người như chính Tràng chẳng hạn. Tràng hôm nay đã không còn giống như Tràng của những ngày hôm qua. Anh Tràng hôm nay ngượng nghịu, khổ sở, tay nọ xoa xoa mãi vai kia, chỉ vì đi bên một người đàn bà ở một nơi vắng vẻ, muốn buông một câu tình tứ mà chịu không sao nói nổi. Rồi đến khi vợ hỏi, anh chàng to xác ấy lại trả lời một cách đến là vô cùng ngờ nghệch, ngây thơ: ”Có một mình tui mấy u”. Ắt hẳn nhiều người sẽ cười Tràng, cũng đúng thôi, nhưng có ai đã từng sống qua mà không thấy: có những cái ngượng nghịu, cái ngẩn ngơ, những sự “khổ sở êm ái” chỉ đến với con người vào những phút giây thật là hạnh phúc. Cái xúc động mà Tràng đang có vào buổi lần đầu đi bên người vợ nhặt, ngẫm ra cũng không ít điều xót xa, cay đắng, nhưng ít nhất cũng là một thứ xúc động, lâng lâng, bồi hồi, biến người đàn ông thô nhám và chai sạn thành một đứa trẻ lớn tuổi hiền lành.

Cái chi tiết Tràng khoe chai dầu con trong tay cũng thế. Nó không chỉ là một sự việc buồn cười. Có lẽ cũng nên nhận ra dưới cái cười, một tiếng thở dài thương cảm cho những kiếp người mà cuộc đời khốn khổ đến mức việc mua có hai hào dầu là cũng đã là một cái gì hoang phí lắm, một cử chỉ có vẻ lãng mạn, ga-lăng lắm lắm. Nhưng dẫu sao thì Tràng đã có cái hãnh diện mà trước kia anh ta chưa từng có. cái hãnh diện được làm một người chồng, đuợc có một đêm tân hôn, được biết mùi vị tiêu hoang một chút để có lấy một lần sáng sủa trong cái thực tại mù mờ: ”Hai hào đấy, đắt quá, có mà thôi chả cần. ”, một lời nói nghe sao mà thật tội nghiệp, nhưng trong cái tội nghiệp đó là một niềm vui không tầm thường, bởi trong hoàn cảnh như thế của Tràng lúc ấy, được coi thường đồng tiền vì một đềiu gì đó lớn hơn, trong trẻo, qúy báu hơn đâu có thể cho là một niềm vui hạ cấp?”

Cũng có thể nghĩ như vậy về cái câu Tràng giới thiệu vợ mình với mẹ: ”Kìa nhà tôi nó chào u. ”. Kim Lân quả thật rất tài trong việc sử dụng những lời thoại ít chữ, văn xuôi hết sức, những câu văn không hề cầu kỳ, gọt giũa, mơ mộng, mà mang đậm phong cách làng quê và lại rất tình cảm chứa đọng trong từng câu nói. Người mà Tràng gọi là “nhà tôi” ấy, cái người con dâu đang thực hiện những nghi lễ đầu tiên ra mắt mẹ chồng tuy là chỉ nhặt được, chưa trải qua cưới hỏi, chưa gặp mặt qua một lần, chưa được mẹ chồng diện kiến “nhan sắc” của mình một lần nhưng những tiếng của Tràng gọi nghe thật nở ruột nở gan như một sự chứng nhận hẳn hoi, rành rọt trước mẹ Tràng, người đàn bà ấy và chính Tràng, một sự thật hiển nhiên: ”Ra hắn đã có vợ rồi đấy ư?Hà!…”. Tuy sự xác nhận ấy có chút nặng nề nhưng cũng giúp Tràng có được một cuộc sống của con người bình thường: “Bỗng nhiên hắn thấy hắn thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng.. Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người. ” Đó cũng là những ao ước của những người nông dân luôn mong có được một gia đình hạnh phúc. Giống như nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên của Nam Cao, từng có khát vọng cùng Thị Nở xây dựng gia đình, dù rằng đi làm thuê mướn cho người ta, cùng nhau mỗi ngày được thưởng thức “bát cháo hành” của vợ. Chính những cái ước mơ vô cùng giản đị như thế đã tạo nên nét đẹp trong tâm hồn người nông dân Việt, và Kim Lân đã đưa vào tác phẩm những điều tinh túy và tiếng nói đầy tính nhân bản, tạo nên sự đồng cảm thiết tha cho người đọc.

Nói về người vợ của Tràng, người đã tìm ra một chốn để nương tựa thân phận người phụ nữ của mình trong cảnh đói nghèo, Kim Lân đã bộc lộ vài sự thất vọng thầm kín khi thấy cảnh tù túng nhà chồng chồng: một tiếng thở dài cố nén trong “cái ngực gầy lép nhô hẳn lên” trước túp nhà rách nát và rúm ró;cách nhếch cười nhạt nhẽo và nét mặt bần thần khi bước vào nơi ở của anh chàng mới lúc ban ngày còn vỗ túi khoe “rích bố cu”;hai con mắt thoáng tối lại khi được bà lão đon đả mời ăn bát cám. và khi trên đường “rước dâu” dài dặc giữa xóm ngụ cư. cái cô nàng cong cớn và trơ trẽn hồi nào bỗng trở nên e dè ngượng ngập;và có khó chịu lắm trước những sự tò mò trêu cợt thì cũng chỉ dám càu nhàu trong miệng, khẽ đến mức ông chồng đi bên cũng không nghe thấy. Đôi mắt tư lự khi đặt bước trên con đường về nhà chồng, cả cái dáng điệu khép nép ngồi mớm ở mép giừơng và tiếng chào u lúng túng.. tất cả những cái đó chỉ làm cho người đàn bà gầy nhom, xám xịt và rách rưới có được cảm giác mình đã là một nàng dâu thực sự, một bông hoa đã có chủ. Và chính Tràng cũng ngạc nhiên trước những thay đổi của nàng ta: “Tràng nom thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu đúng mực không còn vẻ gì chao chát chỏng lỏn như mấy lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh. ”Cuộc đời éo le và nhận hậu bao nhiêu dưới ngòi bút của Kim Lân khi chị vợ kia lại chịu đi theo một người đàn ông như Tràng, xấu xí và xa lạ như để tránh sự cô đơn và nghèo đói. Thế mà khi đến nhà chồng thì nàng ta vẫn chẳng thoát được cái đói của cuộc đời. Nhưng bù cho điều đó nàng lại nhận được một món quà khác đó là tình thân, tình thương, một mái ấm gia đình, một nghĩa vụ phải biết lo lắng cho nửa kia của mình và cũng là điều mà Kim Lân muốn nói: dù đói khổ, khó khăn vất vả nhưng không thể thiếu trong cuộc sống tình thương yêu gia đình, điều đó mới có thể giúp ta cảm thấy được mình vẫn là một con người bình thường như bao người khác.

Kim Lân thật tài trong những câu đối thoại giữa vợ chồng Tràng. Nó lửng lơ, với những câu nói trổng không, dân dã, bình thường, nghe rất lạ lẫm đối với những cặp vợ chồng khác đến hay đối với hai người dân đói khổ bỗng thoáng chốc trở thành vợ chồng, ngay cả khi đi chung với nhau vẫn còn chưa hết ngượng ngùng. Và nó không chỉ thể hiện qua lời nói, mà còn qua cái củng vào trán cùng với một tiếng “dơ”, cái cười hì hì của gã đàn ông, và trước đó là cái lườm của chị vợ.. giống như nhân vật Thị Nở của Nam Cao: ”Một người đàn bà thật xấu khi yêu cũng lườm. ”Nhưng đối với chị vợ của Tràng thì đó còn là một người đàn bà đói rách đang đong đưa con mắt để quên cái xấu, cái nghèo của mình mà nghĩ đến “tình yêu vợ chồng”. Một cái nét đẹp, đáng quý, đáng yêu, đáng buồn cho cái hạnh phúc của đời thường, nạn nhân của xã hội nghèo khổ, nắm bắt ngay những thời cơ để được yêu, để được biết thế nào là hạnh phúc, được hưởng thụ một lần trong đời và để được sống như bao người khác, và nếm được hương vị của gia đình.

;

Và một nhân vật được Kim Lân đưa vào ngay giữa truyện đó là bà cụ Tứ, mẹ của Tràng, một nhân vật làm nổi bật cái khát khao của hai chữ “gia đình” lúc bấy giờ. Bà cụ không hài hước như đôi vợ chồng Tràng, mà đó là một con người đã một kiếp phải sống trong nỗi đau, vất vả, nuôi con khôn lớn. Và cũng chính cái kinh nghiệm từng trải, lòng ám ảnh của một quá khứ nặng nề với nhiều nỗi đắng cay và những băn khoăn của người làm mẹ: ”Bà lão nhớ đến ông lão, nghĩ đến đứa con gái út. Bà lão nghĩ đến cuộc đời cực khổ dái dằng dặc của mình. Vợ chồng chúng nó lấy nhau, cuộc đời chúng nó liệu có hơn bố mẹ trước kia không?”. Điều đó cho ta thấy rằng bà cụ Tứ về những nghịch cảnh éo le của việc hôn nhân, đặc biệt là một cuộc hôn nhân “vội vã” và trong cái thời điểm cũng chẳng ư là thích hợp. Và bà cụ cũng tự nghĩ rằng đó là một duyên kiếp không nên có: ”Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái nở mặt sau này. Còn mình thì…biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không?”. Nhưng sự tình đã rồi, trước mắt bà là người con dâu, mặt cúi xuống, ”tay vân vê tà áo đã rách bợt”. Và rồi bà cụ Tứ cũng chuyển cách nghĩ về việc có vợ là một cơ may: ”Người ta có gặp bước khó khăn đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được…Thôi thì bổn phận bà là mẹ, bà đã chẳng lo lắng được cho con…”câu văn nghe thật cảm động nhưng có chút gì nhoi nhói, một chút tủi hờn, ai oán số phận, nén cái cảm giác bất đắc dĩ trước việc đã bày ra trước mắt, hoà với chút rưng rưng, xao xuyến một niềm vui. Qua đó ta càng lại thấy qúy trọng người mẹ chồng này hơn khi bà nói nhẹ nhàng với nàng dâu mới: ”Thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng”, lột tả cái thần thái của tấm lòng vị tha cao cả, giấu đi những giọt nước mắt xót thương vì sợ gây cho người mình thương xót nhiều lo lắng: ”Có đèn đấy à? Ừ thắp lên một tí cho sáng sủa…Dầu bây giờ đắt gớm lên mày ạ. ” Đó là thứ ánh sáng mờ trong đêm tối, một ánh sáng cho cái tương lai không ổ định, một thứ không biết lúc nào tắt, nhưng cũng là niềm hy vọng nhỏ nhoi của bà cụ Tứ dành cho vợ chồng Tràng. Có thể nói bà cụ Tứ là người có nhiều hy vọng nhất: từ cái việc đan cái phên ngăn riêng chỗ của vợ chồng đứa con trai cho kín đáo;rồi việc”khi nào có tiền ta mua lấy đôi gà” và những ước mơ nghe thấy chạnh lòng “rồi may ra ông giời cho khá…Có ra thì rồi con cái chúng mày về sau. ”Tuy đã gần đất xa trời nhưng bà không ước ao gì cao xa, bà chỉ ao ước cho con mình, cho gia đình, cho thế hệ con cháu mai sau, vun vén những gì tốt đẹp nhất cho con cháu.. Có ai ngờ rằng một bà cụ đang chờ về thế giới bên kia, lại có niềm hy vọng tràn trề không bị tàn lụi theo năm tháng và tuổi tác.

Tác phẩm luôn đề cập hai vần đề trái ngược nhau, đan xen thành một chỉnh thể nghệ thuật chung. Ta có thể thấy rõ khi nói về việc Tràng đưa vợ về nhà, cái nhìn của người dân xóm chợ khi “nhìn theo bóng Tràng và bóng người đàn bà lủi thủi đi về bến”, “Những khuôn mặt hốc hác u tối của họ bỗng dưng rạng rỡ hẳn lên. Có cái gì lạ lùng và tươi mát thổi vào cuộc sống đói khát, tăm tối ấy của họ. ”, rồi sau đó là “một người thở dài”, và sau tiếng cười rung rúc bất chợt nổi lên là sự nín lặng_nín lặng của nỗi buồn lo. Rồi lại trong lời bà cụ nói: ”Cốt làm sao chúng mày hoà thuận là u mừng rồi. năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá…”. Và rõ nhất là những giờ phút hạnh phúc của đôi vợ chồng son trên cái nền âm thanh của tiếng ai hờ khóc người chết đói cứ tỉ tê lúc to lúc nhỏ, dai dẳng tận đêm khuya. Sự đan xen tình huống truyện ngây ngô của những người nông dân chất phác, bình thường với những ước mơ nhỏ nhoi giữa một thế giới, một tương lai mở nhạt, một cuộc sống u ám, ranh giới giữa sự sống và cái chết.

Truyện mở ra là buổi chiều chạng vạng mặt người và khép lại trong “ánh nắng buổi sáng mùa hè sáng loá”. Mở đầu là một anh Tràng cô đơn bước cao bứơc thấp trên con đường khẳng khiu dưới ánh chiều mờ của một gầm trời đầy đói khát, nhưng kết thúc là Tràng đã có một gia đình, mọi người đang xăm xắn quét tước, thu dọn nhà cửa cho quang qủe và cố làm cho nhau vui trước một bữa ăn loãng thếch và đáng chát, và cũng có len lỏi vào đó một nỗi tủi hờn trước việc phải ăn món ăn vốn không phải là của con người, rồi lại tiếng trống thúc thuế trên mảnh đất đầy người chết đói, xua đoàn quạ hốt hoảng vù bay, khiến nền trời thành đen vẩn. Song lại có câu chiện về phá kho thóc Nhật và hình ảnh lá cờ đõ phấp phới trong óc Tràng. Anh đã nhận thức được con đường để thoát nghèo đói là đấu tranh, hình ảnh lá cờ soi sáng anh đi đến lý tưởng đúng đắn nói riêng, và tinh thần đấu tranh của người nông dân đang thôi thúc họ mạnh mẽ thoát khỏi kiếp nghèo và một ngọn lửa hy vọng rực cháy về một tương lai sáng sủa, một khát vọng tình yêu, hơi ấm gia đình, hoà bình và tự do. Qua đó Kim Lân đã gửi gắm tiếng nói chung của những người nông dân rũ bùn đứng dậy sáng loà, chiến đấu vì đất nước, vì để thoát khỏi số phận tối tăm trước mắt. Hình dáng người nông dân nổi bật trước lá cờ đỏ sao vàng, lá cờ lý tưởng cách mạng, lá cờ của niềm tin chiến thắng. Và qua đó nói lên một niềm tin, một hy vọng tràn trề về một chiến thắng, sự thoát khỏi cuộc sống cơ cực và hai từ “hoà bình”, ”tự do”.

Với vốn liếng ngôn ngữ giàu có và đặc sắc, mang đậm tính chất nông thôn, cái lối viết văn tưởng như dễ dàng mà không thể phỏng theo, giản dị vô cùng mà vẫn ánh lên được chất hào hoa Kinh Bắc. những tâm trạng kín đáo nhất cũng phải hiện lên qua những cử chỉ hành động một cách tinh tế : tiếng gắt vô duyên vô cớ, một tiếng khẽ ho bình thừơng, những bứơc chân bứơc vội ra sân, thái độ điềm nhiên và miếng cám vào trong miệng…Nhưng cái đọng lại cúôi cùng là cái nhìn đời, nhìn đời đầy xót xa và thương yêu của nhà văn, là niềm tin mà ông muốn trao gửi đến tất cả chúng ta qua tác phẩm. Dù cuộc sống có bi thảm đến đâu đi chăng nữa thì chính cái cội nguồn nhân bản lưu giữ cho nâhn dân là bất diệt, và con người không có kháo khát chính đáng nào hơn là khao khát được sống như một con người, được nên ngừơ, có được mái ấm gia đình, một cuộc sống ấm no đầy đủ, tình yêu đôi lứa, niềm hạnh phúc trong cuộc sống và tình thương yêu giữa người với người, và để bảo vệ chính mình, để thoát khỏi sự áp bức, đói khổ, những người nông dân trở thành lá cờ đầu cho công cuộc bảo vệ đất nước.

Có thể nói, tác phẩm truyện ngắn “Vợ Nhặt” của Kim Lân là một sự tiếp nối của những tác phẩm văn chương hiện thực phê phán như của Nam Cao, Tô Hoài, …từ trước Cách mạng tháng Tám. Vẫn những mảnh đời éo le, bất hạnh, hay gặp những mảnh đời khó khăn trong những tình huống dở khóc dở cười, hay trong tác phẩm này, chúng ta lại thấy một cuộc sống của những người nông dân sau Cách mạng trong cái đói nghèo của một xã hội cần được phải cải thiện mới, đó là những người có một tâm hồn trong sáng, tràn đầy lòng yêu thương, luôn luôn ấp ủ trong tâm hồn mình những hy vọng, ước ao nhỏ bé, hồn hậu. Chính Kim Lân đã đưa người đọc quay về một thời đen tối của nạn đói, qua đó người đọc đồng cảm, xúc động cho những số phận, những mảnh đời bất hạnh sống. Người đọc còn nhận ra điều Kim Lân muốn gửi gắm đã nêu ở trên. Nhữnghình ảnh, chi tiết về anh Tràng cùng chị vợ trong cuộc hôn nhân “vội vàng”, e ấp, ngại ngùng trên đường về nhà và hình ảnh bà cụ Tứ trong hình ảnh một người mẹ, một người từng trải, về những băn khoăn cho con cái thật sự làm đau đớn, chạnh lòng khi đọc đến những câu văn tha thiết, súc tích biết dường nàoBản thân tôi, khi đọc những dòng văn mà Kim Lân viết, tôi đã có rất nhiều cảm xúc, những cảm xúc tự hào về cha ông đã không vì nạn đói, nguy nan trước mắt mà từ bỏ để rồi xây dựng nên đất nước Việt Nam như ngày hôm nay, cảm xúc về những người nông dân bình dị nhưng lại chất chứa bên trong những niềm hy vọng nhỏ nhoi nhưng đầy nhiệt huyết. Tuy thời gian đã qua, nhưng những hình ảnh về một thời đ1oi khổ, một thời chiến đấu của nhân dân ta vẫn còn hiện lại trong tôi như mới đây thôi. Điều đó càng làm tôi cảm thấy mình có trách nhiệm trong việc giữ gìn, bảo vệ và xây dựng đất nước mà chính những người nông dân, và ông cha ta đã gây dựng.

Kim Lân tên khai sinh là Nguyễn Văn Tài. Ông sinh ngày 1/8/1920, quê ở làng Phù Lưu, xã Tân Hồng, huyện Tiên Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Do hoàn cảnh gia đình khó khăn, ông chỉ được học hết bậc tiểu học rồi phải đi làm. Kim Lân bắt đầu viết truyện ngắn bắt đầu từ năm 1941. Tác phẩm của ông được đăng trên các báo “Tiểu thuyết thứ bảy” và “Trung Bắc chủ nhật”. Một số truyện (“Đứa con người vợ lẽ”, ” Đứa con người cô đầu”, ”Cô Vịa”…) mang tính chất tự truyện, nhưng đã thể hiện được không khí tiêu điều, ảm đạm của nông thôn Việt Nam và cuộc sống lam lũ, vất vả của người nông dân. Ông được dư luận chú ý nhiều hơn khi đi về đề tài độc đáo: tái hiện sinh hoạt văn hoá phong phú ở thôn quê (đánh vật, chọi gà, thả chim…). Các truyện: ”Đôi chim thành”, ”Con mã quái”, ”Chó săn”… kể lại một cách sinh động những thú chơi lành mạnh, qua đó thể hiện một phần vẻ đẹp tâm hồn của người nông dân trước Cách mạng _những người sống cực nhọc, khổ nghèo nhưng vẫn yêu đời, trong sáng, tài hoa. Sau Cách mạng tháng tám, Kim Lân tiếp tục làm báo, viết văn. Ông vẫn chuyên về truyện ngắn và vẫn viết về làng quê Việt Nam _mảng hiện thực mà từ lâu ông đã hiểu biết sâu sắc. Những tác phẩm chính: ”Nên vợ nên chồng” (tập truyện ngắn 1955), ”Con chó xấu xí” (tập truyện ngắn 1962). Trong cả hai giai đoạn sáng tác, tuy viết không nhiều nhưng giai đoạn nào Kim Lân cũng có những tác phẩm hay. Là một cây bút vững vàng, ông đã viết về cuộc sống và con người ở nông thôn bằng tình cảm, tâm hồn của một người vốn là con đẻ của đồng ruộng. Nói như Nguyên Hồng, ông là nhà văn một lòng đi về với “đất”, với “người”, với “thuần hậu nguyên thủy” của cuộc sống nông thôn (Bước đường viết văn NXB Văn học Hà Nội 1971). (SGK Văn học 12)

Với một tâm hồn luôn hướng về cuộc sống và con người nông thôn, Kim Lân luôn đặt ra những vấn đề xã hội làng quê rất tự nhiên và gần gũi, dễ đi vào lòng người đọc. Đặc biệt dựa trên bối cảnh nạn đói năm 1945, Kim Lân đã thể hiện tài năng của mình qua tác phẩm “Vợ Nhặt”_một tác phẩm thấm đẫm tinh thần nhân đạo, phản ánh cuộc sống nghèo khổ, cơ cực và khát vọng về hạnh phúc gia đình của người nông dân Việt Nam trong thời Pháp thuộc. Qua đó bày tỏ tiếng nói chung của những người nông dân trong thời chiến và những ao ước giản dị của họ, tạo nên sự đồng cảm và suy nghĩ trong lòng người đọc.

Ngay trong tựa đề, Kim Lân đã gợi sự tò mò cho người đọc. Chuyện dựng vợ gả chồng là chuyện hệ trọng trong cả đời người, thế mà Kim lân lại dùng hình ảnh “Vợ Nhặt”, một sự gặp gỡ tình cờ và nhanh chóng tiến đến hôn nhân trong cái bối cảnh hiện thực của truyện ngắn là nạn đói mùa xuân Ất Dậu 1945, một trong những thời kỳ đen tối trong lịch sử. Kim Lân đã thổi vào tác phẩm thứ ánh sáng nhập nhoạng, mù mờ của một buổi tối chiều “chạng vạng”. Và thấp thoáng trong thứ ánh sáng đó là hình ảnh những con người “xanh xám như những bóng ma”, ”nằm ngổn ngang khắp lều chợ”, ”những cái thây nằm cong queo bên đường”, một cuộc sống đang mấp mé bên bờ vực thẳm giữa sự sống và cái chết, một không khí “vẩn lên cái mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người”. Những yếu tố mở đầu cho tác phẩm đã gợi lên một không khí nặng nề, phản ánh được cuộc sống của người nông dân lúc bấy giờ mới khó khăn, cực nhọc đến dường nào, gây xúc động cho mỗi chúng ta khi ông cha ta đã trải wo những thời gian khó khăn, ăn “bo bo” thay gạo, chịu đói rét.

Trong khung cảnh đó, nhân vật Tràng hiện lên như một con người hoang sơ ngật ngưỡng bước đi trong ánh chiều tàn của một cuộc sống không ra cuộc sống. Tràng được Kim Lân miêu tả với diện mạo chung của người dân lúc bây giờ: hai con mắt gà gà, nhỏ tí, hai bên quai hàm bạnh ra, bộ mặt thì thô kệch, thân hình thì “vập vạp”, cùng với cái kiểu “ngửa mặt lên cười hềnh hệch”, ”cái đầu trọc nhẵn”, ”cái lưng to rộng như lưng gấu”, và cái áo nâu tàng vắt ở một bên tay, một hình ảnh hết sức hoang dã trong xã hội đói nghèo. Ngay cả nơi ở của Tràng cũng không kém phần hoang dã như thế: cành dong rấp cổng, tấm phên rấp che nhà, mảnh vườn lổn nhổn toàn cỏ dại, mà Tràng cũng chỉ là kẻ ngụ cư, loại người lúc bấy giờ bị coi khinh, ruồng bỏ, một thứ cỏ rác hương thôn. Và Kim Luân đã dùng sáng tạo nghệ thuật của mình, gây ra những bất ngờ cho người đọc ở đầu truyện : ”Giữa cái cảnh tối sầm lại vì đói khát ấy, một buổi chiều người trong xóm bỗng thấy Tràng về với một người đàn bà nữa. ”Một người đàn bà đã bước vào cuộc sống của Tràng.

Tràng có vợ. Người như Tràng mà có vợ. Cái “kẻ” mang bộ dạng giống như con gấu hoặc gốc cây xù xì, trần trụi ấy, lại trong một cuộc đời đang bị đẩy sát tới cái ranh giới phân chia giữa tồn tại và ko tồn tại thế kia, mà lại nhặt được “thứ” vốn biểu trưng cho hạnh phúc. Tràng có vợ một cách hiển hách, oanh liệt, cứ như một anh chàng tốt số, đào hoa: chỉ buông ra có một lời ỡm ờ tán tỉnh, mà “cô nàng” đã vội vã theo không. Tưởng đâu một truyện truyền kỳ về một thời thảm hại. Nhưng đó không phải là một chuyện cổ tích hay theo một mô tuýp chàng ngốc gặp tiên nữ, nhưng đây lại là một sự thật não lòng. Người vợ mà được Tràng nhặt về được trên đường đời thảm đạm cũng thuộc về một dạng người giống như Tràng. Chân dung của chị ta cũng là một bức ký họa khác với tự nhiên, với những đường nét tai hại cho người phụ nữ: ”cái ngực gầy lép, khuôn mặt lưỡi cày xám xịt”,.. gầy xọp, rách mướt, ” áo quần tả tơi như tảo đỉa”, đấy là hình ảnh người đàn bà đã làm đảo lộn cuộc đời Tràng. Nhưng khéo nhất là những dòng được viết, Kim Lân cho ta nhận thấy: cái người phụ nữ đói rách kia còn xa mới có thể coi là hiền thục;làm sao mà Kim Lân có thể tả cái đanh đá, cái trơ của người đàn bà lao động nghèo tài thế, sinh động đến là như thế. Kim Lân cũng rất tài tình khi tả vợ của Tràng rất cong cớn nhưng không nanh nọc, trơ trẽn. Và cũng chính cái cong cớn, sưng sỉa, đanh đá, trơ trẽn kia, nó có thể sinh ra từ dốt nát, đói nghèo, tâm tối chứ tuyệt không sinh ra từ cái ác, cái xấu xa.

Vậy là hai thân phận bọt bèo ấy đã dạt đến nhau qua những lời yêu đại loại như: ”Rích bố cu, hở”, ”Hà, ngon!Về chị ấy thấy hụt tiền thì bỏ bố”, ”Làm đếch gì có vợ. Này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về. ”. Đó là ngôn ngữ của tình duyên, hay cũng chỉ là bốn bát bánh đúc mà người đàn ông nổi hứng khao và người đàn bà cắm đầu ăn liền một chập, chẳng buông một lời trò chuyện gì. Bốn bát bánh đúc trong những ngày tháng đói kém, chúng đủ phép màu để làm hai con mắt trũng hoáy của người phụ nữ đói rách sáng lên. Có xót xa không, khi cái đói tuy mang lại nhiều đau khổ lại cũng có thể xe duyên cho một mối tình giữa hai tâm hồn cũng nghèo khó. Điều đó, ta nhận thấy dường như không có sự cách biệt giữa Kim Lân và người nông dân, nên ông mới có thể miêu tả người nông dân trong những năm nghèo đói mới chân thật đến như vậy, và những tình tiết có vẻ buồn cười thì bên dưới đó lại là những nỗi buồn và niềm thương cảm. Những trang viết về những con người “dưới đáy” thế này thì không làm ta khinh ghét họ mà xót thương và buồn cho họ vì họ không thể sống trong điều kiện tốt hơn trong cái xã hội mà được mọi người gọi là con người mà chính cái xã hội đó cũng đang từ bỏ họ, để mặc họ trong cái nghèo đói. Ở đây, tác giả không phải nói về những nét thấp kém của con người bộc lộ qua nhân hình và nhân cách. Ngược lại, với việc đặt nhân vật vào một khoảng sống mờ tối, lắt lay, nhà văn đã tìm ra một cơ hội song để biểu hiện nỗi bất diệt của niềm khao khát thèm được sống, được thương yêu và hy vọng. Niềm ao ước hạnh phúc đó không thể diệt trừ cái đói hay sự u tối của một tương lai không mấy sáng sủa và nó cũng không bị diệt trừ. Nó cứ âm thầm vươn lên từ đói khát, tối tăm và chính bởi thế mà nó trở nên cảm động và đáng qúy biết chừng nào.

Khi “nhặt” vợ về, Tràng không phải là không biết suy nghĩ: ”thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không lại còn đèo bồng”. Nhưng rồi anh lại tặc lưỡi: “Chậc, kệ!”. Một quyết định có vẻ rất tầm thường với một sự việc hết sức trọng đại trong thời điểm bấy giờ. Nhưng ta có thể hiều rằng, cái tặc lưỡi đó đồng nghĩa với việc là Tràng đã đánh cuộc với đời, với cái nghèo đói, để sống “đầy đủ” cuộc sống bình thường như mọi người. Đó là khát vọng làm người mà một kẻ thô kệch, chất phác như Tràng vẫn có đã khiến Tràng liều lĩnh một phen. Và Tràng cũng đã được đền bù: ”Trong một lúc, Tràng hình như quên hết những cảnh sống ê chề, tăm tối hàng ngày, quên cả cái đói khát ghê gớm đang đe dọa từng ngày, và quên cả những tháng ngày trước mặt. Trong lòng hắn bây giờ chỉ còn tình nghĩa giữa hắn và người đàn bà đi bên. Một cái gì mới mẻ, lạ lắm, chưa từng tấhy ở người đàn ông nghèo khổ ấy, nó ôm ấp, mơn man khắp da thịt Tràng, tựa hồ như có bàn tay vuốt nhẹ trên sống lưng. ”Qua đó, Kim Lân đã gieo vào lòng người đọc những cảm xúc: Khác với những người có đầu óc bi quan thường nghi, sự đói khát, nghèo khổ không làm giảm đi giá trị của lòng người. Bao giờ cái hạnh phúc được thương yêu cũng qúy hơn tất cả, ngay cả khi người ta tưởng như rằng không còn cần gì hơn là một miếng cơm ăn.

Con người ai ai cũng mong có được hạnh phúc. Và Kim Lân, hạnh phúc, đến lượt nó, lại có thể làm thay đổi cả một con người như chính Tràng chẳng hạn. Tràng hôm nay đã không còn giống như Tràng của những ngày hôm qua. Anh Tràng hôm nay ngượng nghịu, khổ sở, tay nọ xoa xoa mãi vai kia, chỉ vì đi bên một người đàn bà ở một nơi vắng vẻ, muốn buông một câu tình tứ mà chịu không sao nói nổi. Rồi đến khi vợ hỏi, anh chàng to xác ấy lại trả lời một cách đến là vô cùng ngờ nghệch, ngây thơ: ”Có một mình tui mấy u”. Ắt hẳn nhiều người sẽ cười Tràng, cũng đúng thôi, nhưng có ai đã từng sống qua mà không thấy: có những cái ngượng nghịu, cái ngẩn ngơ, những sự “khổ sở êm ái” chỉ đến với con người vào những phút giây thật là hạnh phúc. Cái xúc động mà Tràng đang có vào buổi lần đầu đi bên người vợ nhặt, ngẫm ra cũng không ít điều xót xa, cay đắng, nhưng ít nhất cũng là một thứ xúc động, lâng lâng, bồi hồi, biến người đàn ông thô nhám và chai sạn thành một đứa trẻ lớn tuổi hiền lành.

Cái chi tiết Tràng khoe chai dầu con trong tay cũng thế. Nó không chỉ là một sự việc buồn cười. Có lẽ cũng nên nhận ra dưới cái cười, một tiếng thở dài thương cảm cho những kiếp người mà cuộc đời khốn khổ đến mức việc mua có hai hào dầu là cũng đã là một cái gì hoang phí lắm, một cử chỉ có vẻ lãng mạn, ga-lăng lắm lắm. Nhưng dẫu sao thì Tràng đã có cái hãnh diện mà trước kia anh ta chưa từng có. cái hãnh diện được làm một người chồng, đuợc có một đêm tân hôn, được biết mùi vị tiêu hoang một chút để có lấy một lần sáng sủa trong cái thực tại mù mờ: ”Hai hào đấy, đắt quá, có mà thôi chả cần. ”, một lời nói nghe sao mà thật tội nghiệp, nhưng trong cái tội nghiệp đó là một niềm vui không tầm thường, bởi trong hoàn cảnh như thế của Tràng lúc ấy, được coi thường đồng tiền vì một đềiu gì đó lớn hơn, trong trẻo, qúy báu hơn đâu có thể cho là một niềm vui hạ cấp?”

Cũng có thể nghĩ như vậy về cái câu Tràng giới thiệu vợ mình với mẹ: ”Kìa nhà tôi nó chào u. ”. Kim Lân quả thật rất tài trong việc sử dụng những lời thoại ít chữ, văn xuôi hết sức, những câu văn không hề cầu kỳ, gọt giũa, mơ mộng, mà mang đậm phong cách làng quê và lại rất tình cảm chứa đọng trong từng câu nói. Người mà Tràng gọi là “nhà tôi” ấy, cái người con dâu đang thực hiện những nghi lễ đầu tiên ra mắt mẹ chồng tuy là chỉ nhặt được, chưa trải qua cưới hỏi, chưa gặp mặt qua một lần, chưa được mẹ chồng diện kiến “nhan sắc” của mình một lần nhưng những tiếng của Tràng gọi nghe thật nở ruột nở gan như một sự chứng nhận hẳn hoi, rành rọt trước mẹ Tràng, người đàn bà ấy và chính Tràng, một sự thật hiển nhiên: ”Ra hắn đã có vợ rồi đấy ư?Hà!…”. Tuy sự xác nhận ấy có chút nặng nề nhưng cũng giúp Tràng có được một cuộc sống của con người bình thường: “Bỗng nhiên hắn thấy hắn thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng.. Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người. ” Đó cũng là những ao ước của những người nông dân luôn mong có được một gia đình hạnh phúc. Giống như nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên của Nam Cao, từng có khát vọng cùng Thị Nở xây dựng gia đình, dù rằng đi làm thuê mướn cho người ta, cùng nhau mỗi ngày được thưởng thức “bát cháo hành” của vợ. Chính những cái ước mơ vô cùng giản đị như thế đã tạo nên nét đẹp trong tâm hồn người nông dân Việt, và Kim Lân đã đưa vào tác phẩm những điều tinh túy và tiếng nói đầy tính nhân bản, tạo nên sự đồng cảm thiết tha cho người đọc.

Nói về người vợ của Tràng, người đã tìm ra một chốn để nương tựa thân phận người phụ nữ của mình trong cảnh đói nghèo, Kim Lân đã bộc lộ vài sự thất vọng thầm kín khi thấy cảnh tù túng nhà chồng chồng: một tiếng thở dài cố nén trong “cái ngực gầy lép nhô hẳn lên” trước túp nhà rách nát và rúm ró;cách nhếch cười nhạt nhẽo và nét mặt bần thần khi bước vào nơi ở của anh chàng mới lúc ban ngày còn vỗ túi khoe “rích bố cu”;hai con mắt thoáng tối lại khi được bà lão đon đả mời ăn bát cám. và khi trên đường “rước dâu” dài dặc giữa xóm ngụ cư. cái cô nàng cong cớn và trơ trẽn hồi nào bỗng trở nên e dè ngượng ngập;và có khó chịu lắm trước những sự tò mò trêu cợt thì cũng chỉ dám càu nhàu trong miệng, khẽ đến mức ông chồng đi bên cũng không nghe thấy. Đôi mắt tư lự khi đặt bước trên con đường về nhà chồng, cả cái dáng điệu khép nép ngồi mớm ở mép giừơng và tiếng chào u lúng túng.. tất cả những cái đó chỉ làm cho người đàn bà gầy nhom, xám xịt và rách rưới có được cảm giác mình đã là một nàng dâu thực sự, một bông hoa đã có chủ. Và chính Tràng cũng ngạc nhiên trước những thay đổi của nàng ta: “Tràng nom thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu đúng mực không còn vẻ gì chao chát chỏng lỏn như mấy lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh. ”Cuộc đời éo le và nhận hậu bao nhiêu dưới ngòi bút của Kim Lân khi chị vợ kia lại chịu đi theo một người đàn ông như Tràng, xấu xí và xa lạ như để tránh sự cô đơn và nghèo đói. Thế mà khi đến nhà chồng thì nàng ta vẫn chẳng thoát được cái đói của cuộc đời. Nhưng bù cho điều đó nàng lại nhận được một món quà khác đó là tình thân, tình thương, một mái ấm gia đình, một nghĩa vụ phải biết lo lắng cho nửa kia của mình và cũng là điều mà Kim Lân muốn nói: dù đói khổ, khó khăn vất vả nhưng không thể thiếu trong cuộc sống tình thương yêu gia đình, điều đó mới có thể giúp ta cảm thấy được mình vẫn là một con người bình thường như bao người khác.

Kim Lân thật tài trong những câu đối thoại giữa vợ chồng Tràng. Nó lửng lơ, với những câu nói trổng không, dân dã, bình thường, nghe rất lạ lẫm đối với những cặp vợ chồng khác đến hay đối với hai người dân đói khổ bỗng thoáng chốc trở thành vợ chồng, ngay cả khi đi chung với nhau vẫn còn chưa hết ngượng ngùng. Và nó không chỉ thể hiện qua lời nói, mà còn qua cái củng vào trán cùng với một tiếng “dơ”, cái cười hì hì của gã đàn ông, và trước đó là cái lườm của chị vợ.. giống như nhân vật Thị Nở của Nam Cao: ”Một người đàn bà thật xấu khi yêu cũng lườm. ”Nhưng đối với chị vợ của Tràng thì đó còn là một người đàn bà đói rách đang đong đưa con mắt để quên cái xấu, cái nghèo của mình mà nghĩ đến “tình yêu vợ chồng”. Một cái nét đẹp, đáng quý, đáng yêu, đáng buồn cho cái hạnh phúc của đời thường, nạn nhân của xã hội nghèo khổ, nắm bắt ngay những thời cơ để được yêu, để được biết thế nào là hạnh phúc, được hưởng thụ một lần trong đời và để được sống như bao người khác, và nếm được hương vị của gia đình.

;

Và một nhân vật được Kim Lân đưa vào ngay giữa truyện đó là bà cụ Tứ, mẹ của Tràng, một nhân vật làm nổi bật cái khát khao của hai chữ “gia đình” lúc bấy giờ. Bà cụ không hài hước như đôi vợ chồng Tràng, mà đó là một con người đã một kiếp phải sống trong nỗi đau, vất vả, nuôi con khôn lớn. Và cũng chính cái kinh nghiệm từng trải, lòng ám ảnh của một quá khứ nặng nề với nhiều nỗi đắng cay và những băn khoăn của người làm mẹ: ”Bà lão nhớ đến ông lão, nghĩ đến đứa con gái út. Bà lão nghĩ đến cuộc đời cực khổ dái dằng dặc của mình. Vợ chồng chúng nó lấy nhau, cuộc đời chúng nó liệu có hơn bố mẹ trước kia không?”. Điều đó cho ta thấy rằng bà cụ Tứ về những nghịch cảnh éo le của việc hôn nhân, đặc biệt là một cuộc hôn nhân “vội vã” và trong cái thời điểm cũng chẳng ư là thích hợp. Và bà cụ cũng tự nghĩ rằng đó là một duyên kiếp không nên có: ”Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái nở mặt sau này. Còn mình thì…biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không?”. Nhưng sự tình đã rồi, trước mắt bà là người con dâu, mặt cúi xuống, ”tay vân vê tà áo đã rách bợt”. Và rồi bà cụ Tứ cũng chuyển cách nghĩ về việc có vợ là một cơ may: ”Người ta có gặp bước khó khăn đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được…Thôi thì bổn phận bà là mẹ, bà đã chẳng lo lắng được cho con…”câu văn nghe thật cảm động nhưng có chút gì nhoi nhói, một chút tủi hờn, ai oán số phận, nén cái cảm giác bất đắc dĩ trước việc đã bày ra trước mắt, hoà với chút rưng rưng, xao xuyến một niềm vui. Qua đó ta càng lại thấy qúy trọng người mẹ chồng này hơn khi bà nói nhẹ nhàng với nàng dâu mới: ”Thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng”, lột tả cái thần thái của tấm lòng vị tha cao cả, giấu đi những giọt nước mắt xót thương vì sợ gây cho người mình thương xót nhiều lo lắng: ”Có đèn đấy à? Ừ thắp lên một tí cho sáng sủa…Dầu bây giờ đắt gớm lên mày ạ. ” Đó là thứ ánh sáng mờ trong đêm tối, một ánh sáng cho cái tương lai không ổ định, một thứ không biết lúc nào tắt, nhưng cũng là niềm hy vọng nhỏ nhoi của bà cụ Tứ dành cho vợ chồng Tràng. Có thể nói bà cụ Tứ là người có nhiều hy vọng nhất: từ cái việc đan cái phên ngăn riêng chỗ của vợ chồng đứa con trai cho kín đáo;rồi việc”khi nào có tiền ta mua lấy đôi gà” và những ước mơ nghe thấy chạnh lòng “rồi may ra ông giời cho khá…Có ra thì rồi con cái chúng mày về sau. ”Tuy đã gần đất xa trời nhưng bà không ước ao gì cao xa, bà chỉ ao ước cho con mình, cho gia đình, cho thế hệ con cháu mai sau, vun vén những gì tốt đẹp nhất cho con cháu.. Có ai ngờ rằng một bà cụ đang chờ về thế giới bên kia, lại có niềm hy vọng tràn trề không bị tàn lụi theo năm tháng và tuổi tác.

Tác phẩm luôn đề cập hai vần đề trái ngược nhau, đan xen thành một chỉnh thể nghệ thuật chung. Ta có thể thấy rõ khi nói về việc Tràng đưa vợ về nhà, cái nhìn của người dân xóm chợ khi “nhìn theo bóng Tràng và bóng người đàn bà lủi thủi đi về bến”, “Những khuôn mặt hốc hác u tối của họ bỗng dưng rạng rỡ hẳn lên. Có cái gì lạ lùng và tươi mát thổi vào cuộc sống đói khát, tăm tối ấy của họ. ”, rồi sau đó là “một người thở dài”, và sau tiếng cười rung rúc bất chợt nổi lên là sự nín lặng_nín lặng của nỗi buồn lo. Rồi lại trong lời bà cụ nói: ”Cốt làm sao chúng mày hoà thuận là u mừng rồi. năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá…”. Và rõ nhất là những giờ phút hạnh phúc của đôi vợ chồng son trên cái nền âm thanh của tiếng ai hờ khóc người chết đói cứ tỉ tê lúc to lúc nhỏ, dai dẳng tận đêm khuya. Sự đan xen tình huống truyện ngây ngô của những người nông dân chất phác, bình thường với những ước mơ nhỏ nhoi giữa một thế giới, một tương lai mở nhạt, một cuộc sống u ám, ranh giới giữa sự sống và cái chết.

Truyện mở ra là buổi chiều chạng vạng mặt người và khép lại trong “ánh nắng buổi sáng mùa hè sáng loá”. Mở đầu là một anh Tràng cô đơn bước cao bứơc thấp trên con đường khẳng khiu dưới ánh chiều mờ của một gầm trời đầy đói khát, nhưng kết thúc là Tràng đã có một gia đình, mọi người đang xăm xắn quét tước, thu dọn nhà cửa cho quang qủe và cố làm cho nhau vui trước một bữa ăn loãng thếch và đáng chát, và cũng có len lỏi vào đó một nỗi tủi hờn trước việc phải ăn món ăn vốn không phải là của con người, rồi lại tiếng trống thúc thuế trên mảnh đất đầy người chết đói, xua đoàn quạ hốt hoảng vù bay, khiến nền trời thành đen vẩn. Song lại có câu chiện về phá kho thóc Nhật và hình ảnh lá cờ đõ phấp phới trong óc Tràng. Anh đã nhận thức được con đường để thoát nghèo đói là đấu tranh, hình ảnh lá cờ soi sáng anh đi đến lý tưởng đúng đắn nói riêng, và tinh thần đấu tranh của người nông dân đang thôi thúc họ mạnh mẽ thoát khỏi kiếp nghèo và một ngọn lửa hy vọng rực cháy về một tương lai sáng sủa, một khát vọng tình yêu, hơi ấm gia đình, hoà bình và tự do. Qua đó Kim Lân đã gửi gắm tiếng nói chung của những người nông dân rũ bùn đứng dậy sáng loà, chiến đấu vì đất nước, vì để thoát khỏi số phận tối tăm trước mắt. Hình dáng người nông dân nổi bật trước lá cờ đỏ sao vàng, lá cờ lý tưởng cách mạng, lá cờ của niềm tin chiến thắng. Và qua đó nói lên một niềm tin, một hy vọng tràn trề về một chiến thắng, sự thoát khỏi cuộc sống cơ cực và hai từ “hoà bình”, ”tự do”.

Với vốn liếng ngôn ngữ giàu có và đặc sắc, mang đậm tính chất nông thôn, cái lối viết văn tưởng như dễ dàng mà không thể phỏng theo, giản dị vô cùng mà vẫn ánh lên được chất hào hoa Kinh Bắc. những tâm trạng kín đáo nhất cũng phải hiện lên qua những cử chỉ hành động một cách tinh tế : tiếng gắt vô duyên vô cớ, một tiếng khẽ ho bình thừơng, những bứơc chân bứơc vội ra sân, thái độ điềm nhiên và miếng cám vào trong miệng…Nhưng cái đọng lại cúôi cùng là cái nhìn đời, nhìn đời đầy xót xa và thương yêu của nhà văn, là niềm tin mà ông muốn trao gửi đến tất cả chúng ta qua tác phẩm. Dù cuộc sống có bi thảm đến đâu đi chăng nữa thì chính cái cội nguồn nhân bản lưu giữ cho nâhn dân là bất diệt, và con người không có kháo khát chính đáng nào hơn là khao khát được sống như một con người, được nên ngừơ, có được mái ấm gia đình, một cuộc sống ấm no đầy đủ, tình yêu đôi lứa, niềm hạnh phúc trong cuộc sống và tình thương yêu giữa người với người, và để bảo vệ chính mình, để thoát khỏi sự áp bức, đói khổ, những người nông dân trở thành lá cờ đầu cho công cuộc bảo vệ đất nước.

Có thể nói, tác phẩm truyện ngắn “Vợ Nhặt” của Kim Lân là một sự tiếp nối của những tác phẩm văn chương hiện thực phê phán như của Nam Cao, Tô Hoài, …từ trước Cách mạng tháng Tám. Vẫn những mảnh đời éo le, bất hạnh, hay gặp những mảnh đời khó khăn trong những tình huống dở khóc dở cười, hay trong tác phẩm này, chúng ta lại thấy một cuộc sống của những người nông dân sau Cách mạng trong cái đói nghèo của một xã hội cần được phải cải thiện mới, đó là những người có một tâm hồn trong sáng, tràn đầy lòng yêu thương, luôn luôn ấp ủ trong tâm hồn mình những hy vọng, ước ao nhỏ bé, hồn hậu. Chính Kim Lân đã đưa người đọc quay về một thời đen tối của nạn đói, qua đó người đọc đồng cảm, xúc động cho những số phận, những mảnh đời bất hạnh sống. Người đọc còn nhận ra điều Kim Lân muốn gửi gắm đã nêu ở trên. Nhữnghình ảnh, chi tiết về anh Tràng cùng chị vợ trong cuộc hôn nhân “vội vàng”, e ấp, ngại ngùng trên đường về nhà và hình ảnh bà cụ Tứ trong hình ảnh một người mẹ, một người từng trải, về những băn khoăn cho con cái thật sự làm đau đớn, chạnh lòng khi đọc đến những câu văn tha thiết, súc tích biết dường nàoBản thân tôi, khi đọc những dòng văn mà Kim Lân viết, tôi đã có rất nhiều cảm xúc, những cảm xúc tự hào về cha ông đã không vì nạn đói, nguy nan trước mắt mà từ bỏ để rồi xây dựng nên đất nước Việt Nam như ngày hôm nay, cảm xúc về những người nông dân bình dị nhưng lại chất chứa bên trong những niềm hy vọng nhỏ nhoi nhưng đầy nhiệt huyết. Tuy thời gian đã qua, nhưng những hình ảnh về một thời đ1oi khổ, một thời chiến đấu của nhân dân ta vẫn còn hiện lại trong tôi như mới đây thôi. Điều đó càng làm tôi cảm thấy mình có trách nhiệm trong việc giữ gìn, bảo vệ và xây dựng đất nước mà chính những người nông dân, và ông cha ta đã gây dựng.

Chọn tập
Bình luận